Vùng làm muối cổ xưa của cư dân văn hóa Sa Huỳnh

TS ĐOÀN NGỌC KHÔI

VHO - Các nghiên cứu khảo cổ, dân tộc học đã chứng minh người cổ đại tạo ra muối thông qua sự bốc hơi của nước biển nhờ ánh nắng mặt trời hoặc đun sôi nước muối; và trong hầu hết các trường hợp, đặc biệt là vào thời tiền sử ở châu Âu và châu Á, nước muối được lấy từ nước muối nội địa suối và hồ có độ mặn cao.

Vùng làm muối cổ xưa của cư dân văn hóa Sa Huỳnh - ảnh 1

Từ các vùng làm muối cổ xưa của nhân loại…

Muối có hai dạng cơ bản: Muối mỏ và muối phơi nước từ biển. Trong đó, muối mỏ chiếm vị trí chủ yếu trong hoạt động khai thác và sử dụng của con người, muối sản xuất thủ công phơi nước chiếm tỷ lệ khoảng 20%. Trên thế giới, việc sản xuất muối diễn ra rất sớm ở vùng văn hóa Lưỡng Hà với sự phát triển của văn minh đô thị ở Syro-Mesopotamia trong thiên niên kỷ thứ tư trước Công nguyên. Người ta phát hiện Qraya nằm bên sông Euphrates là nơi sản xuất muối để cung cấp cho thành phố Syro-Mesopotamiac .

Văn hóa Liangzhu được công nhận là xã hội “nhà nước” đầu tiên ở phương Đông châu Á và phát triển ở phía Đông Trung Quốc đồng bằng ven biển ở 3.300 năm trước Công nguyên. Nền kinh tế dựa vào nông nghiệp trồng lúa, đặc trưng các khu định cư với đô thị cổ, kỹ thuật chế tác ngọc bích tinh xảo và nghề làm muối. Địa điểm Daxie thời kỳ Đồ đá mới, trên đảo Daxie cùng tên ngoài khơi bờ biển Hoa Đông được công nhận là địa điểm sản xuất muối biển sớm nhất được khai quật cho đến nay ở Trung Quốc, cung cấp bằng chứng cho thấy việc sản xuất muối biển ở bờ biển phía Đông Trung Quốc đã được các cộng đồng thời kỳ Đồ đá mới áp dụng .

Việt Nam, một quốc gia ở xứ nhiệt đới, có hơn 3.200km đường bờ biển với đặc điểm nổi bật của thềm lục địa thoải và kín gió, có thể nhìn thấy rất nhiều làng muối hiện diện trên khắp miền duyên hải, từ Bắc chí Nam, trong đó miền Trung, vùng đất của văn hóa Sa Huỳnh, luôn tiếp cận với nhiều luồng hải thương quốc tế, các tuyến thương mại nối từ cửa biển lên thượng nguồn đi sâu vào lục địa, đã khiến cho nơi này có số lượng lớn về các diêm trường. Từ đây muối sẽ mang đi khắp nơi qua hệ thống cảng thị cửa biển, qua các phiên chợ ở miền núi. Các con đường muối hình thành từ cổ xưa nối liền vùng duyên hải lên vùng cao nguyên theo trục sông và đường rừng, muối và các hàng hóa khác đi ngược lên cao nguyên, đồng thời nguồn lâm sản quý sẽ đưa về xuôi, quan hệ giao thương hai chiều xuôi ngược có từ thời văn hóa Sa Huỳnh đến Champa tiếp tục đến Đại Việt: Ai về nhắn với Nậu nguồn/ Măng le gửi xuống, cá chuồn gửi lên”. Cá chuồn đó là cá chuồn được muối khô.

Muối là thành phần thiết yếu trong chế độ ăn uống của con người; nó cũng được sử dụng để lưu trữ và vận chuyển cá và thịt từ thời tiền sử. Do đó, muối thậm chí có thể cung cấp nền tảng kinh tế cho một cộng đồng hoặc đóng vai trò là phương tiện tương tác xã hội, điều này có thể đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa và hình thành các xã hội phức tạp ban đầu. Muối thậm chí có thể cung cấp cơ sở kinh tế cho một cộng đồng hoặc đóng vai trò là phương tiện tương tác xã hội, điều này có thể đã thúc đẩy quá trình các đô thị cổ và hình thành các tổ chức xã hội phức tạp ban đầu.

Cư dân văn hóa Sa Huỳnh đã đạt đến trình độ đỉnh cao trong rèn luyện sắt, nấu đúc thủy tinh, đương nhiên họ đã biết đến nghề muối từ rất sớm. Trong bản đồ phân bố các di tích văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam, các địa điểm Sa Huỳnh quan trọng đều nằm gắn liền với cửa sông ra biển và cánh đồng muối. Trường hợp cụ thể đối chiếu với vùng Quảng Ngãi thì ta sẽ thấy quan hệ gắn bó giữa nơi cư trú của người Sa Huỳnh với cửa sông biển và cánh đồng muối, đó là: Di tích Sa Huỳnh - cửa Sa Huỳnh - đồng muối Tân Diêm; Di tích Bình Châu - cửa Sa Kỳ - đồng muối Diêm Điền (đã mất); Di tích Gò Quê - cửa Sa Cần - đồng muối Tuyết Diêm (đã mất). Đây là bằng chứng khảo cổ phản ánh hoạt động sản xuất muối của người Sa Huỳnh, nơi đây trở thành đầu mối giao thương trên biển và vận chuyển theo đường sông lên các điểm Sa Huỳnh núi, lan tỏa theo đường rừng đến các buôn, nóc, plei ở vùng núi cao nguyên xa xôi. Muối của cư dân Sa Huỳnh là phương tiện tương tác xã hội, là động lực giao lưu hai chiều xuôi - ngược và cũng chính là nền tảng đem lại sự giàu có trong xã hội Sa Huỳnh, góp phần hình thành nên các tiểu quốc cổ hậu Sa Huỳnh ở thế kỷ đầu Công nguyên.

Vùng làm muối cổ xưa của cư dân văn hóa Sa Huỳnh - ảnh 2
Muối và nghề làm muối Sa Huỳnh

… đến phát hiện vùng làm muối cổ của cư dân văn hóa Sa Huỳnh

 Vào ngày hè trưa nắng, nhiệt độ lên tới 400C, tôi đi tìm kiếm địa danh Trảng Muối ở Sa Huỳnh và may mắn tìm thấy ở xóm Cỏ (Sa Huỳnh) có địa danh này. Người dân làng là chị Bùi Thị Vân, Nguyễn Thị Gá và cháu Trần Thị Thu Thủy đã dẫn tôi đi đến vùng Trảng Muối, nơi tổ tiên của họ xa xưa đã làm muối trên mặt đá và đến nay họ vẫn tiếp tục. Trảng Muối là địa danh để chỉ khu vực bằng phẳng, cư dân bản địa chuyên làm muối trên mặt đá. Trảng Muối có diện tích khoảng 10 ha, một bên giáp biển, một bên giáp núi là vùng rừng cây chịu hạn. Trảng Muối có 2 khu vực: Khu vực hồ trên đá chứa nước biển chảy vào tự nhiên theo triều cường và sóng, nước trong hồ chứa được giang nắng tạo nên độ mặn cao hơn nước biển bình thường. Khu vực ruộng muối trên đá là các ô nhỏ trên mặt đá được be bờ đất sét, hoặc hố trũng. Từ hồ chứa nước biển đã được giang phơi, người ta dùng thùng nhỏ lấy nước đem đổ vào các ô ruộng muối. Khoảng một tuần nước biển phơi nắng sẽ bốc hơi trở thành tinh thể muối trắng óng ánh, hạt muối lớn hơn so với muối bình thường. Cư dân ở vùng xóm Cỏ hiện nay vẫn thực hành làm muối trên trảng đá ở Trảng Muối như tổ tiên xưa. Hầu hết các ô làm muối cổ có đặc điểm clorua xâm nhập với thời gian lâu dài vào lớp vỏ đá làm mòn, có màu sẫm đen.

Trảng Muối cổ nằm cạnh khu mộ chum văn hóa Sa Huỳnh tại Thạnh Đức, khu cư trú của cư dân văn hóa Sa Huỳnh ở Long Thạnh, con đường Sa Huỳnh cổ đạo, bia ký Champa. Nền đá gốc tạo nên Trảng Muối là đá bazan cổ có nguồn gốc núi lửa, độ cao trung bình 8m so với mặt nước biển. Trong giai đoạn biển tiến Flandrian có mức ngập tối đa +5m trên mực nước biển, hiện tại vào Holocen giữa (4.200 năm trước) thì khu vực Trảng Muối cổ không bị ngập chìm. Cư dân tiền Sa Huỳnh Long Thạnh đã xuất hiện ở đây sau giai đoạn Holocen giữa, mẫu than phân tích đồng vị phóng xạ C14 trong lớp sớm độ sâu 1,8m của khu cư trú Long Thạnh là 3370 ± 40 năm cách ngày nay. Cư dân tiền Sa Huỳnh Long Thạnh đã biết chế tác đồ đá ngọc trang sức nephrit và làm muối. Trảng Muối cổ chính là nơi sản xuất muối biển phơi nước trên đá của cư dân văn hóa Sa Huỳnh. Cách thức làm muối trên đá mà người dân xóm Cỏ vẫn còn thực hành đã cho thấy đây là kỹ thuật làm muối rất cổ xưa, kỹ thuật này dựa vào tính hấp thu nhiệt và giữ nhiệt rất tốt của nền đá bazan, từ đó để phơi nước biển kết tinh thành hạt muối. Kỹ thuật phơi nước biển trên đá kết tinh thành muối có  2 công đoạn: Công đoạn 1 chứa nước biển vào hồ chứa giang phơi tăng nồng độ muối; Công đoạn 2 đưa nước đã được giang phơi vào các ô ruộng muối để bốc hơi kết tinh. Kỹ thuật phơi nước biển kết tinh hạt muối trên đá dựa vào năng lượng thiên nhiên là ánh nắng mặt trời.

So sánh với đồng muối cổ Dương Phố  ở Hải Nam, Trung Quốc (có niên đại khoảng năm 800 sau Công nguyên), nơi đây có hơn 1.000 tảng đá bazan tạo phẳng thành ô để chứa nước biển bốc hơi kết tinh thành muối. Hai địa điểm này có chung một kỹ thuật phơi nước biển trên đá để kết tinh muối.

Trảng muối cổ Sa Huỳnh nằm trong không gian Di tích quốc gia đặc biệt văn hóa Sa Huỳnh và là thành tố không thể tách rời với văn hóa Sa Huỳnh. Truyền thống kỹ thuật phơi nước biển làm muối tại Sa Huỳnh phát triển liên tục từ văn hóa Sa Huỳnh đến Champa và đến Đại Việt không bị đứt quãng là di sản phi vật thể quý giá. Hiện nay, cần thiết quy hoạch địa điểm Trảng Muối cùng với khu vực san hô, vùng rừng chịu hạn, xóm Cỏ (làng Gò Cỏ) nơi người dân thực hành làm muối cổ thành Công viên di sản văn hóa muối Sa Huỳnh nhằm bảo tồn Di sản và phát huy giá trị du lịch. 

Nghề làm muối Sa Huỳnh trở thành Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia

Bộ VHTTDL đã ban hành Quyết định số 3983/QĐ-BVHTTDL ngày 10.12.2024, công nhận nghề thủ công truyền thống nghề làm muối Sa Huỳnh thuộc phường Phổ Thạnh, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Theo Quyết định, Chủ tịch UBND các cấp nơi có di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, thực hiện việc quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.

Để tổ chức quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề làm muối Sa Huỳnh, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi giao Ủy ban nhân dân thị xã Đức Phổ chịu trách nhiệm quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản theo quy định.

Giao Sở VHTTDL hướng dẫn, tạo điều kiện hỗ trợ UBND thị xã Đức Phổ thực hiện công tác quản lý, truyền thông, quảng bá, phát huy giá trị Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề làm muối Sa Huỳnh.