Người đi xây hồ Kẻ Gỗ:
Bài 2 - Từ dòng nước mát đến cuộc hồi sinh cả vùng quê nghèo Hà Tĩnh
VHO - Ngày 3.2.1977, dòng nước đầu tiên từ hồ Kẻ Gỗ tràn xuống hàng nghìn ha ruộng khô hạn, mở ra bước ngoặt lịch sử cho nông nghiệp Hà Tĩnh. Chỉ sau vài vụ, năng suất lúa vụ mùa đã tăng hơn 20%, vụ đông từ bỏ trống thành mùa sản xuất chính. Đến đến năm 1995, sản lượng lương thực toàn tỉnh đạt 334.000 tấn, gấp rưỡi so với 4 năm trước đó.

Ngày hội mở nước
Ngày 3.2.1977, đúng vào dịp kỷ niệm 47 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, hàng nghìn nông dân huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà bất chấp mưa phùn, giá rét, nô nức kéo về hai bên bờ kênh Kẻ Gỗ. Cờ Tổ quốc, cờ Đảng rợp trời, không ai bảo ai, người người đứng dày đặc hai bên bờ để đón dòng nước đầu tiên tràn về đồng ruộng.
Trước đó, cả một ngày đêm, công trường đầu mối được chỉnh trang rực rỡ. Rừng cờ, biểu ngữ, áp phích chạy dài từ đập Bộc Nguyên qua Lâm trường Cẩm Kỳ đến cổng công trình. Cán bộ, kỹ sư, công nhân của hai Công ty Thủy lợi số 3 và 4 (Bộ Thủy lợi), lực lượng thanh niên xung phong cùng bà con các xã vùng hưởng lợi như Cẩm Quan, Cẩm Duệ, Cẩm Mỹ, Thạch Điền… đã có mặt từ rất sớm. Trong tiếng nhạc hùng tráng vang lên từ sân hội trường, báo hiệu giờ phút lịch sử, dòng nước Kẻ Gỗ bắt đầu chảy vào hệ thống kênh, mương.
14h50 phút, dưới bàn tay của nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ Tĩnh Trương Văn Kiện, cánh cửa cống được kéo lên. Trong tiếng pháo giòn giã, nước từ lòng hồ Kẻ Gỗ ùa về, cuồn cuộn vỡ òa bao năm khao khát. Chỉ vài ngày sau, dòng nước ấy sẽ chảy suốt hơn 14 km kênh chính, 56 km kênh cấp I, 108 km kênh cấp II… về với 5.000 ha ruộng chiêm xuân - nơi hàng nghìn năm từng chỉ trồng khoai, đợi mưa.
“Nhìn dòng nước Kẻ Gỗ chảy vào kênh, tôi cùng anh em công ty vô cùng xúc động. Lúc đó, bà con nhân dân ai ai cũng hồ hởi, phấn khởi. Đến giờ nhớ lại, công trình Đại thủy nông hồ Kẻ Gỗ vẫn là niềm tự hào nhất trong ký ức đời làm kỹ thuật của tôi”, ông Đào Văn Ký (77 tuổi, trú phường Trường Vinh, tỉnh Nghệ An, nguyên là cán bộ kỹ thuật Công ty Thủy lợi 4 - Bộ Thủy lợi) xúc động kể lại.
Chỉ trong ba năm, khối lượng công việc khổng lồ tưởng chừng vượt sức người đã được hoàn thành ở Kẻ Gỗ: Hơn 11 triệu m³ đất đá được đào đắp, 50.000m³ đá được xếp chồng, 100.000m³ bê tông, gần 2.000 tấn thép dựng lên. Đập chính dài 1.100m, cao 36m, sừng sững giữa rừng; đập phụ kéo dài 1.500m; cống lấy nước xuyên qua lòng núi đá - một hạng mục tưởng như bất khả thi với điều kiện lúc bấy giờ. Trên công trường, có những ngày hơn 20.000 con người quần quật lao động, mồ hôi chan cùng đất đỏ, trong điều kiện khắc nghiệt: Vật tư thiếu thốn, đói, rét, thiếu thuốc men…
Sau ba mùa mưa nắng, hồ Kẻ Gỗ hình thành, ôm trọn 345 triệu m³ nước, đưa sức sống về cho hàng nghìn ha ruộng đồng, trở thành biểu tượng ý chí và sức mạnh của thời kỳ kiến thiết. Ngày mở nước không chỉ là sự kiện kỹ thuật, mà còn là ngày hội của lòng dân, là mốc son đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử vùng đất lam lũ, quanh năm vật lộn với nắng hạn, mất mùa.
Dòng nước đổi đời
Là một trong số ít “nhân chứng lịch sử” thời kỳ xây dựng hồ Kẻ Gỗ đến nay vẫn còn sống, ở tuổi 82, dẫu mái tóc bạc phơ nhưng nguyên Giám đốc Công ty Thủy nông Kẻ Gỗ Hồ Đức Xớn vẫn nhớ như in những đổi thay trên quê hương sau ngày hội mở nước.
Ông kể, khi dòng nước từ hồ Kẻ Gỗ đổ về, ruộng đồng Hà Tĩnh như bừng tỉnh. Những cánh đồng bạc màu, nứt nẻ bỗng xanh ngát mạ non. Từ chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào “trời thương”, nông dân đã chủ động gieo trồng, luân canh 2-3 vụ mỗi năm, đưa vào các giống lúa mới như Khang Dân, CR203 rồi đến những giống năng suất cao hơn. Cùng với đó, nhiều hợp tác xã mới ra đời, cơ giới hóa bắt đầu hiện diện trên cánh đồng.
“Bộ mặt nông thôn thay đổi hẳn. Từ chỗ thiếu đói triền miên, nay toàn bộ diện tích có thể gieo cấy lúa 2 vụ, năng suất tăng mạnh, nông dân các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà vô cùng phấn khởi. Nhà văn hóa mọc lên, đường bê tông, đường nhựa nối liền khắp thôn xóm. Ngoài cây lúa, phong trào chăn nuôi, trồng cây ăn quả phát triển ở các xã Cẩm Nam, Cẩm Thăng, Cẩm Huy, mang lại nguồn thu cho người dân. Nhờ dòng nước Kẻ Gỗ, cán bộ và nhân viên Công ty Thủy nông cũng được bà con hết mực quý mến; đời sống cải thiện rõ rệt khi nông dân sẵn sàng nộp thủy lợi phí để duy trì, bảo vệ công trình”, ông Hồ Đức Xớn kể lại.
Theo báo cáo, sản lượng lương thực bình quân giai đoạn 1976- 1980 của Hà Tĩnh tăng khoảng 16,6% so với giai đoạn 1971- 1975, cùng với xu hướng chuyển mạnh sang thâm canh và đa dạng vụ mùa. Tại Nghệ An, giống lúa tiến bộ như NN8 đã đưa năng suất lên trên 18 tạ/ha. Tiếp đó, giống NN75-10 và CR-203 được đưa vào, cho năng suất vụ hè thu đạt 42-46 tạ/ha, mở ra cuộc cách mạng mùa vụ ở Nghệ Tĩnh.
Đến năm 1995, sản lượng lương thực toàn tỉnh Hà Tĩnh đạt 334.000 tấn, tăng thêm 141.000 tấn so với năm 1991, bình quân lương thực đầu người cũng tăng từ 160 kg lên 264 kg/năm. Không chỉ ruộng đồng trù phú, nông thôn Hà Tĩnh thời ấy còn ghi dấu mở ra các mô hình sản xuất mới: Cánh đồng mẫu, hợp tác xã kiểu mới, vùng chuyên canh lúa giống, rau màu, thủy sản… tạo nên bước chuyển toàn diện trong đời sống nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Ngoài ra, hồ Kẻ Gỗ còn cấp nước sinh hoạt cho hàng vạn hộ dân, điều tiết lũ mùa mưa, chống ngập úng, bảo vệ hệ sinh thái rừng tràm, rừng ngập mặn. Mỗi năm, hồ tưới hơn 17.000 ha đất canh tác, cấp nước cho TP Hà Tĩnh và vùng phụ cận, trở thành “mạch sống” bền vững của hạ du.
Nhờ dòng nước ấy, bộ mặt nông thôn Hà Tĩnh thay đổi nhanh chóng. Nhiều làng quê từng “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nay có đường điện, trường học, trạm y tế. Con em nông dân được ăn, được học, trở thành kỹ sư, giáo viên, cán bộ, quay về góp sức cho quê hương.
Bà Nguyễn Thị Hồng (77 tuổi, trú thôn Thượng Long, xã Cẩm Xuyên), là một trong số thanh niên xung phong từng tham gia “xẻ đá, đắp đập” xây hồ Kẻ Gỗ. Ở cái tuổi “xưa nay hiếm”, bà Hồng vẫn nhớ như in những mùa vụ bội thu của gia đình sau ngày mở nước hồ Kẻ Gỗ. Ba người con của vợ chồng bà đã được nuôi lớn, ăn học, trưởng thành từ những mẫu lúa, nương ngô...
(Còn nữa)