Du lịch bản địa giúp đồng bào dân tộc thiếu số thoát nghèo

HƯƠNG GIANG

VHO - Miền Trung và Tây Nguyên là vùng đất hội tụ nhiều giá trị văn hóa – lịch sử và thiên nhiên độc đáo. Từ dãy Trường Sơn hùng vĩ đến những ngôi làng ven biển, từ tiếng cồng chiêng ngân vang đến những làn điệu dân ca, bản sắc văn hóa nơi đây là tài sản vô giá.

Những năm gần đây, thay vì chỉ trông chờ vào nông nghiệp, nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số đã tìm hướng đi mới: phát triển du lịch bản địa. Nhờ đó, không ít hộ gia đình đã thoát nghèo, đời sống nâng cao, trong khi di sản văn hóa truyền thống được hồi sinh và lan tỏa mạnh mẽ.

Những mô hình thoát nghèo từ du lịch bản địa

Ở miền Trung và Tây Nguyên, mỗi cộng đồng dân tộc đều lưu giữ kho tàng văn hóa đặc sắc. Người Cơ Tu (Đà Nẵng) có lễ hội mừng lúa mới, kiến trúc Gươl và nghề dệt thổ cẩm. Người Tà Ôi (TP. Huế) nổi tiếng với điệu múa Aza và tấm zèng tinh xảo.

Du lịch bản địa giúp đồng bào dân tộc thiếu số thoát nghèo - ảnh 1
Người dân Tây Nguyên giữ gìn sinh hoạt cộng đồng tại nhà rông – biểu tượng văn hóa đặc sắc gắn liền với phát triển du lịch bản địa

Người Bahnar, Jrai sở hữu Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên – di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Người Ê Đê, M’nông gắn bó với nhà dài, sử thi và các lễ hội nông nghiệp.

Những giá trị ấy, vốn gắn chặt với đời sống tín ngưỡng, tinh thần, nay được khai thác để xây dựng sản phẩm du lịch. Du khách đến không chỉ để tham quan phong cảnh, mà còn để hòa mình vào đời sống cộng đồng: ngủ nhà sàn, tham gia lễ hội, thưởng thức ẩm thực núi rừng, cùng dệt thổ cẩm hay gùi nước suối.

Ông Nguyễn Văn Bình, chuyên gia du lịch cộng đồng, nhận định: “Du lịch bản địa là cách phát triển vừa dựa vào lợi thế sẵn có, vừa tôn trọng môi trường và văn hóa truyền thống. Đây chính là mô hình ‘làm giàu từ gốc’, giúp đồng bào thoát nghèo mà không đánh mất bản sắc”.

Du lịch bản địa giúp đồng bào dân tộc thiếu số thoát nghèo - ảnh 2
Nghề dệt truyền thống được hồi sinh nhờ kết hợp với sản phẩm du lịch, tạo thêm sinh kế cho phụ nữ miền núi

Tại miền núi Tây Giang (Đà Nẵng), người Cơ Tu đã kết hợp gìn giữ lễ hội truyền thống với phát triển du lịch sinh thái. Những ngôi Gươl được phục dựng, các đội múa tâng tung da dá được thành lập để phục vụ du khách.

Bà con mở dịch vụ homestay, nấu các món ăn đặc sản như cơm lam, heo nướng ống, rau rừng… Nhờ đó, thu nhập của nhiều hộ tăng gấp nhiều lần so với chỉ làm nương rẫy.

Ở TP. Huế, làng du lịch A Lưới của người Tà Ôi trở thành điểm đến hấp dẫn nhờ kết hợp trải nghiệm dệt zèng, múa dân gian và tham quan cảnh sắc Trường Sơn.

Du lịch bản địa giúp đồng bào dân tộc thiếu số thoát nghèo - ảnh 3
Không gian văn hóa cồng chiêng trở thành sản phẩm du lịch độc đáo, vừa bảo tồn di sản, vừa tăng thu nhập cho đồng bào

Các sản phẩm thủ công truyền thống khi gắn với du lịch đã tìm được đầu ra ổn định, giúp nhiều phụ nữ dân tộc có thu nhập hàng triệu đồng mỗi tháng.

Tại Gia Lai và Kon Tum, các làng văn hóa Bahnar, Jrai khai thác Không gian văn hóa cồng chiêng để phát triển du lịch cộng đồng. Những đêm hội cồng chiêng quanh bếp lửa, bên ché rượu cần, vừa tạo trải nghiệm đặc biệt cho du khách, vừa mang lại nguồn thu trực tiếp cho nghệ nhân và hộ gia đình.

Du lịch bản địa giúp đồng bào dân tộc thiếu số thoát nghèo - ảnh 4

Ở Đắk Lắk, nhiều hộ Ê Đê đã mạnh dạn mở dịch vụ homestay trong những ngôi nhà dài truyền thống.

Khách đến không chỉ được ngủ lại mà còn được nghe kể sử thi, thưởng thức cà phê bản địa, xem trình diễn văn hóa. Đây là cách để đồng bào biến di sản thành sinh kế, đồng thời quảng bá cà phê Buôn Ma Thuột ra thế giới.

Khi văn hóa truyền thống thành lợi thế cạnh tranh

Du lịch bản địa không chỉ đem lại lợi ích kinh tế, mà còn tạo động lực để thế hệ trẻ gắn bó với bản làng. Nhiều thanh niên từng rời quê đi làm xa nay trở lại, tham gia phát triển du lịch cộng đồng.

Du lịch bản địa giúp đồng bào dân tộc thiếu số thoát nghèo - ảnh 5
Nhiều điểm du lịch bản địa còn thiếu hạ tầng đồng bộ, cần sự đầu tư để phát triển bền vững

Họ vừa là người hướng dẫn, vừa là cầu nối ngôn ngữ, giúp du khách quốc tế tiếp cận gần hơn với văn hóa bản địa.

Bên cạnh đó, du lịch còn góp phần hồi sinh các loại hình văn hóa có nguy cơ mai một. Ở Gia Lai, các lớp truyền dạy cồng chiêng cho thiếu niên được duy trì nhờ nhu cầu du lịch.

Ở Huế, nghề dệt zèng được bảo tồn và mở rộng, nhờ khách du lịch mua làm quà. Ở Quảng Nam, những điệu múa, làn điệu dân ca Cơ Tu được biểu diễn thường xuyên hơn, không chỉ trong lễ hội mà cả trong các chương trình đón khách.

Du khách chính là “khán giả” mới, tạo thêm động lực để đồng bào tiếp tục giữ gìn di sản. Điều này giúp văn hóa truyền thống không chỉ sống trong cộng đồng, mà còn lan tỏa ra bên ngoài, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam.

Dù có nhiều tiềm năng, du lịch bản địa cũng đối mặt không ít khó khăn. Hạ tầng tại các làng du lịch còn hạn chế, giao thông đi lại khó khăn, dịch vụ lưu trú chưa đáp ứng nhu cầu cao cấp. Một số nơi khai thác văn hóa chưa phù hợp, có nguy cơ thương mại hóa di sản.

Du lịch bản địa giúp đồng bào dân tộc thiếu số thoát nghèo - ảnh 6
Tiếng cồng chiêng, mái nhà dài, tấm zèng… không chỉ là di sản, mà còn là động lực sống, giúp đồng bào miền Trung và Tây Nguyên vươn lên bằng du lịch bản địa

Để du lịch bản địa trở thành động lực phát triển bền vững, các địa phương cần có quy hoạch dài hạn, gắn kết giữa bảo tồn và phát triển.

Nhà nước cần hỗ trợ xây dựng hạ tầng, đào tạo kỹ năng cho người dân, từ ngoại ngữ, kỹ năng phục vụ, đến quản lý homestay. Đồng thời, cần khuyến khích doanh nghiệp đầu tư có trách nhiệm, tránh tình trạng “xẻ thịt” văn hóa vì lợi nhuận ngắn hạn.

Du lịch bản địa đang chứng minh là “cần câu” giúp đồng bào miền Trung và Tây Nguyên vươn lên. Không ít hộ gia đình đã thoát nghèo, con em được học hành đầy đủ hơn, đời sống vật chất và tinh thần cải thiện rõ rệt.

Du lịch bản địa giúp đồng bào dân tộc thiếu số thoát nghèo - ảnh 7

Quan trọng hơn, đồng bào nhận ra rằng, giá trị lớn nhất chính là văn hóa và thiên nhiên quê hương – vốn quý nếu biết giữ gìn và khai thác đúng cách.

Trong dòng chảy hội nhập, khi du khách ngày càng tìm đến những trải nghiệm chân thực, du lịch bản địa có cơ hội trở thành sản phẩm đặc trưng, đưa miền Trung và Tây Nguyên trở thành điểm đến độc đáo trên bản đồ du lịch Việt Nam và quốc tế.

Tiếng cồng chiêng bên bếp lửa, mái nhà dài Ê Đê, tấm zèng Tà Ôi, Gươl Cơ Tu… tất cả không chỉ là di sản, mà còn là “động lực sống” cho cộng đồng.

Du lịch bản địa, nếu được nuôi dưỡng đúng hướng, sẽ không chỉ giúp thoát nghèo, mà còn làm giàu trên nền tảng văn hóa – điều mà không ngành kinh tế nào có thể thay thế.