Chủ tịch Hồ Chí Minh: Người đặt nền móng cho quan hệ "hợp tác đầy đủ" Việt Mỹ
VHO - Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước và sau khi trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã có nhiều mối cơ duyên với nước Mỹ và người Mỹ.
Mở đầu là trải nghiệm cuộc sống ở nước Mỹ và tìm hiểu về cách mạng Mỹ từ cuối năm 1912 đến đầu năm 1913. Thời gian Người ở Mỹ không lâu, nhưng tại hai thành phố cảng sầm uất là New York và Boston, Người vừa đi làm thuê để kiếm sống, vừa tìm hiểu đời sống những người lao động Mỹ, tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ, với bản Tuyên ngôn Độc lập nổi tiếng trong lịch sử. Kể từ đây cho tới khi ra đi về cõi vĩnh hằng năm 1969, đã có rất nhiều sự kiện xảy ra liên quan đến mối quan hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với nước Mỹ, người Mỹ và giới lãnh đạo nước Mỹ.
Ngày 2.11.1944, một chiếc máy bay Mỹ hoạt động trên vùng trời Cao Bằng bị rơi, viên phi công nhảy dù được lực lượng Việt Minh cứu thoát. Tháng 2.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định trực tiếp đưa viên trung úy phi công Mỹ tên là Sao (Shaw) trở về Bộ Tư lệnh không quân Mỹ ở Côn Minh, Trung Quốc. Tướng Claire L Chennault đã tiếp Người. Trong cuộc gặp gỡ này, người Mỹ hứa sẽ giúp đỡ vũ khí, thuốc men, điện đài cho Việt Nam và huấn luyện cho người của Việt Minh biết sử dụng các vũ khí đó.
Giữa năm 1945, khi Hồ Chí Minh chuyển đại bản doanh từ Cao Bằng về Tân Trào, Tuyên Quang, Việt Minh đã tổ chức đón các đội OSS về Tân Trào qua sân bay Lũng Cò, lập Đại đội Việt Mỹ… Tháng 8.1945, tại nơi ở và làm việc của mình (nhà 48 Hàng Ngang, Hà Nội), Hồ Chí Minh tiếp và mời thiếu tá Archimedes L. A Patti xem bản thảo lời Tuyên ngôn Độc lập.
Trong hai năm 1945-1946, ngay sau Lễ Quốc khánh 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã liên tiếp gửi 12 văn bản thư, điện cho Tổng thống và Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ. Tại các văn bản này, Chủ tịch Hồ Chí Minh hoan nghênh Tuyên bố của Tổng thống Mỹ, nhất là những điểm liên quan trực tiếp tới quyền độc lập của các dân tộc “nhược tiểu” đang mất quyền độc lập như Việt Nam, Philippines..., yêu cầu nước Mỹ thực hiện tuyên bố đó.
Đầu tháng 10.1945, Tổng thống Mỹ Truman đã tuyên bố chính sách đối ngoại 12 điểm sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, trong đó nêu rõ Mỹ sẽ “không phản đối và không giúp Pháp tái lập sự kiểm soát ở Đông Dương”. Nhằm khai thác điểm tích cực trong tuyên bố của Truman, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương vận động thành lập Việt - Mỹ thân hữu Hội, tiền thân của Hội Việt - Mỹ hiện nay.
Ngày 1.11.1945, trong thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ James Byrnes, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Nhân danh Hội Văn hóa Việt Nam, tôi xin được bày tỏ nguyện vọng của Hội, được gửi một phái đoàn khoảng 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác”.
Thư gửi Tổng thống Hoa Kỳ ngày 16.2.1946, Người viết: “Cũng như Philippines, mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ”. Người còn gửi Công hàm tới Chính phủ các nước Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Xô và Vương quốc Anh ngày 18.2.1946, đề nghị ngăn chặn việc quân đội Pháp xâm lược miền Nam Việt Nam, đưa vấn đề Đông Dương ra Liên Hợp Quốc, trao trả độc lập cho các nước Đông Dương.
Bút tích tiếng Anh bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông Bernard và ông Fenn, hai nhân viên thuộc Cục Phục vụ chiến lược (OSS) Mỹ đã giúp lực lượng Việt Minh thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Bản chụp tại Viện Hồ Chí Minh
Ngày 12.1.1947, điện trả lời một nhà báo Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh “gửi tới nhân dân Mỹ vĩ đại tình hữu nghị tốt đẹp nhất của nhân dân Việt Nam và hy vọng nhân dân Mỹ sẽ ủng hộ Việt Nam đấu tranh giành độc lập… Việt Nam muốn giữ mối liên hệ với nước Mỹ”.
Ngày 2.9.1947, trong Thư gửi Việt Mỹ ái hữu hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa ca ngợi mối quan hệ trong lịch sử, vừa cột chặt trách nhiệm của nước Mỹ, Người viết: “Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác thân ái của các bạn người Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật, và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục trong cuộc tranh đấu của chúng ta chống thực dân phản động Pháp, giành thống nhất và độc lập. Chúng ta mong rằng Hoa Kỳ - nước đầu tiên đã tranh đấu cho nền dân chủ và độc lập quốc gia, nước đầu tiên đã ký vào các bản hiến chương rộng rãi của Liên Hợp Quốc, nước đầu tiên đã công nhận nền độc lập cho các thuộc địa, nước đã thi hành đúng các nguyên tắc của Washington, Lincoln, Roosevelt sẽ giúp chúng ta trong công cuộc tranh đấu giải phóng hiện nay và trong công cuộc kiến thiết xây dựng sau này”.
Tháng 9.1947, trả lời nhà báo S. Elie Maissie, phóng viên Hãng tin Mỹ I.N.S, hỏi về đại cương chính sách đối ngoại của nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Như vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ động quan hệ với Phái bộ Đồng minh, gửi thư, điện cho Tổng thống Mỹ, Bộ Ngoại giao, các nước trong Hội đồng Bảo an… để tố cáo dã tâm xâm lược của thực dân Pháp, bày tỏ nguyện vọng được sống trong độc lập, tự do, tranh thủ sự đồng tình của các lực lượng tiến bộ… đều nằm trong khuôn khổ của mục tiêu đối ngoại là góp phần “đưa nước nhà đến độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn”, bám sát phương châm đối ngoại độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên bìa Tạp chí Newsweek của Mỹ
Trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975), bên cạnh quyết tâm sắt đá bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn để ngỏ khả năng đàm phán, mở đường để quân đội Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở nhân dân ta phân biệt rõ ràng đế quốc thực dân xâm lược với nhân dân Mỹ, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, để kiên quyết bảo vệ độc lập tự do.
Ngày 25.8.1969, trên giường bệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt bức thư cuối cùng trả lời thư Tổng thống Mỹ Richard Nixon: “Với thiện chí của phía ngài và phía chúng tôi, chúng ta có thể đi tới những cố gắng chung để tìm một giải pháp đúng đắn cho vấn đề Việt Nam”. Hai mươi năm sau chiến tranh ở Việt Nam, ngày 11.7.1995, Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Cùng ngày, sáng 12.7.1995 theo giờ Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt thông báo quyết định bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Ngày 25.7.2013, tại Nhà Trắng đã diễn ra cuộc hội đàm giữa Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Hai nhà lãnh đạo đã quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ dựa trên các nguyên tắc tôn trọng Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang viết bài đăng trên tờ Bưu điện Washington số ra ngày 27.7.2013: "Mặc dù ở hai bờ xa cách của Thái Bình Dương bao la, nhân dân Việt Nam và nhân dân Hoa Kỳ cùng chia sẻ một niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của một châu Á - Thái Bình Dương, hòa bình, hợp tác, thịnh vượng. Hôm nay, khi tôi tới thăm đất nước và nhân dân Hoa Kỳ, chúng ta cùng chia sẻ niềm vui vì ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gần 70 năm trước về mối quan hệ "hợp tác đầy đủ" giữa hai dân tộc chúng ta đã thành hiện thực".
Tiếp theo các chuyến thăm Việt Nam của bốn Tổng thống Mỹ, Tổng thống Joe Biden thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 10-11.9.2023 theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Sự kiện diễn ra vào dịp hai nước kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện. Tại các cuộc hội đàm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trân trọng nhắc lại sự kiện hai nước đã từng quan hệ trong cuộc đấu tranh chống phát xít, đặc biệt sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ trong Tuyên ngôn Độc lập của nhà nước Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh: “Đối với Hoa Kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam và Việt Nam sẵn sàng hợp tác đầy đủ với Hoa Kỳ; nền độc lập và hợp tác đó có lợi cho toàn thế giới”.
Vậy là, sự cố gắng của cả hai bên khép lại quá khứ, hướng về tương lai đã tạo nên bước ngoặt lớn, nâng tầm Đối tác Chiến lược toàn diện mà như nhiều nhà ngoại giao nói, "hợp tác đầy đủ" (full cooperation) như ý nguyện của Bác, hàm súc và đủ ý. Đây là sự kế thừa của mối bang giao Việt - Mỹ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng cách nay hơn một thế kỷ, nay mới thành hiện thực.
TS CHU ĐỨC TÍNH