Đại hội Đảng bộ Bộ VHTTDL lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030:
10 dấu ấn nổi bật
VHO - Đại hội Đảng bộ Bộ VHTTDL lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030 sẽ bắt đầu phiên trù bị vào chiều mai 25.6, tiếp đó diễn ra phiên chính thức từ ngày 25 -26.6.2025 tại Nhà hát Lớn Hà Nội, số 1 Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Đại hội có sự tham dự của 250 đại biểu chính thức, đại diện cho gần 3.000 đảng viên đến từ 58 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Đảng bộ Bộ.

Dự thảo Báo cáo chính trị của Đại hội nêu rõ, Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ VHTTDL nhiệm kỳ 2025 - 2030 là dấu mốc rất quan trọng trên chặng đường phát triển của Bộ và Ngành VHTTDL.
Đại hội diễn ra vào thời điểm rất đặc biệt. Đất nước Việt Nam ta kỷ niệm 80 năm thành lập nước với nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là sau 40 năm đổi mới. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thi đua, phấn khởi, tràn đầy niềm tin và khí thế mới với quyết tâm bước vào Kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc.
Trong bối cảnh đó, Đại hội là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, cổ vũ, động viên và đề ra mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ giải pháp để toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động trong toàn Đảng bộ tiếp tục hành trình khát vọng cống hiến, lao động sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn thách thức, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển toàn diện văn hóa, con người Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Với phương châm “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Tinh gọn - Chuyên nghiệp - Phát triển”, nêu cao tinh thần “Văn hóa là nền tảng - Thông tin là mạch dẫn - Thể thao là sức mạnh - Du lịch là nhịp cầu kết nối”, toàn thể Đảng bộ quyết tâm cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước tiến vào kỷ nguyên mới của dân tộc, đóng góp xứng đáng vào quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 khi Đảng ta tròn 100 năm; hướng tới hiện thực hóa tầm nhìn đến năm 2045 kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận chuyên đề của Trung ương, các Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, và Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Bộ VHTTDL nhiệm kỳ 2020 - 2025 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, đặc biệt là hậu quả nặng nề của đại dịch Covid-19, các vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu. Trong nước, kinh tế - xã hội nói chung, lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể thao và du lịch có những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen.
Nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước chưa thật sự đầy đủ, toàn diện, chưa thấm sâu trong các cấp ủy đảng, người dân và cộng đồng. Việc thể chế hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng thành luật pháp và các chính sách cụ thể, khả thi về phát triển văn hóa, xây dựng con người còn chậm trễ.
Môi trường văn hóa tiếp tục bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực, có biểu hiện xuống cấp về đạo đức, lối sống, đặc biệt là trên không gian mạng. Còn khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền. Nguồn lực đầu tư của toàn xã hội cho văn hóa, thể thao, du lịch, báo chí, xuất bản thấp hơn so với nhu cầu thực tế.
Chất lượng nguồn nhân lực chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thể thao chuyên nghiệp, thể thao thành tích cao phát triển chưa vững chắc. Tính cạnh tranh giữa các quốc gia trong lĩnh vực du lịch ngày càng cao. Công tác báo chí, xuất bản đã từng bước đi vào nền nếp nhưng còn nhiều nội dung cần tập trung chấn chỉnh.
Trong bối cảnh đó, với sự quan tâm, chỉ đạo sáng suốt, sát sao, kịp thời của Đảng, Nhà nước; sự phối hợp chặt chẽ của các ban, bộ, ngành, các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương; sự ủng hộ, hưởng ứng tích cực của nhân dân; với phương châm “Quyết liệt hành động - Khát vọng cống hiến”, toàn Đảng bộ phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, của Chính phủ, đạt được những kết quả quan trọng, khá toàn diện với nhiều điểm sáng và dấu ấn nổi bật.
1. Tham mưu “đúng - trúng - kịp thời” nhiều nội dung quan trọng, nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước
Trong nhiệm kỳ, Ban Cán sự Đảng, Ban Thường vụ, Đảng ủy Bộ đã báo cáo, tham mưu đề xuất Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhiều nội dung mang tính đột phá, then chốt, nhằm tháo gỡ các “điểm nghẽn”, “nút thắt”, để “khơi thông nguồn lực” cho sự phát triển bứt phá của Bộ và Ngành.
Về chủ trương, đường lối, Bộ đã chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành tham mưu để Bộ Chính trị đã ban hành nhiều chủ trương, định hướng quan trọng: Kết luận số 156-KL/TW ngày 21.5.2025 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; Kết luận số 84-KL/TW ngày 21.6.2024 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới; Kết luận số 70-KL/TW về phát triển thể dục, thể thao trong giai đoạn mới .
Đáng chú ý, với việc tham mưu tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng vào ngày 24.11.2021 - Hội nghị đầu tiên sau 75 năm Ngày Bác Hồ chủ trì Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất năm 1946, nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững được nâng lên rõ nét trong các cấp ủy, chính quyền và mọi tầng lớp nhân dân. Chuỗi các hoạt động kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương văn hoá Việt Nam 1943 do Bộ chủ trì ở cấp trung ương và các hoạt động hưởng ứng tại các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đã tạo hiệu ứng lan toả về vị trí, vai trò của văn hoá tại địa bàn cơ sở.
Đồng thời, Bộ cũng chủ động phối hợp cùng các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương tổ chức các Hội nghị văn hóa cấp tỉnh , từ đó, nhiều tỉnh/thành phố đã lần đầu tiên ban hành Nghị quyết chuyên đề của Tỉnh/thành ủy về phát triển văn hóa gắn với thực tiễn của địa phương.
Về tham mưu, phản ứng chính sách, Bộ đã tham mưu cấp có thẩm quyền lần đầu tiên tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo cấp quốc gia với chủ đề thiết thực, vừa nâng cao nhận thức xã hội, vừa tạo tiền đề cho các quyết sách mới có tính đột phá.
Thủ tướng Chính phủ chủ trì 2 Hội nghị toàn quốc về du lịch, 1 Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam; Bộ phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, các Ủy ban của Quốc hội tổ chức 3 Hội thảo cấp quốc gia: “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới”; “Thể chế, chính sách, nguồn lực cho phát triển văn hóa” và “Chính sách và nguồn lực cho phát triển thiết chế văn hóa, thể thao” và nhiều hội nghị quan trọng khác.
Qua đó, đã đề xuất hoạch định chính sách, giải pháp nhằm cụ thể hóa các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, tạo nguồn lực phát triển văn hóa. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết, Chỉ thị chuyên đề về phát triển du lịch, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa .
Những nỗ lực của Ngành trong cả nhiệm kỳ được Lãnh đạo Đảng và Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, các cấp ủy Đảng, chính quyền có bước chuyển rõ rệt, nhận thức ngày càng sâu sắc hơn vị trí và vai trò của văn hóa, đặc biệt là quan điểm “văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”, từ đó quan tâm lãnh đạo có hiệu quả hơn đối với phát triển văn hóa.
Trong nhiệm kỳ, đầu tư nguồn lực cho văn hóa năm sau luôn cao hơn năm trước; một số địa phương đạt tỷ lệ chi đầu tư cho văn hóa trên 2%, nhiều địa phương đạt gần 4% tổng chi ngân sách.

2. Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế được chú trọng đặc biệt, có chuyển biến rất tích cực, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước
Với quyết tâm tạo đột phá trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về phát triển văn hóa, thông tin, thể thao và du lịch, chuyển đổi căn bản, toàn diện nhận thức, tư duy từ “làm văn hóa” sang “quản lý nhà nước về văn hoá” thông qua công cụ pháp luật, Bộ đã chủ động rà soát, nghiên cứu, chủ động đề xuất cấp có thẩm quyền hoàn thiện thể chế, chính sách, xử lý “khoảng trống về mặt pháp lý”, thúc đẩy phát triển theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển.
Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Bộ đạt được kết quả rất tích cực, là điểm sáng nổi bật trong công tác thể chế. Điểm nhấn đặc biệt quan trọng là tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035.
Đồng thời, 2 Chiến lược và 2 Quy hoạch phát triển ngành được Thủ tướng Chính phủ ban hành, tạo tiền đề vững chắc và nguồn lực đầu tư phát triển văn hóa, thể thao và du lịch.
3. Công tác xây dựng môi trường văn hóa gắn với xây dựng “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới” hướng đến hiệu quả thực chất
Trong nhiệm kỳ, Bộ chú trọng xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, bám sát mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” từng bước được nâng cao, hướng đến hiệu quả thực chất.
Công tác xây dựng môi trường văn hóa được Bộ triển khai theo hướng đề cao vai trò tự nguyện, tự quản thông qua các Quy ước, Hương ước đã góp phần rất quan trọng điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng dân cư theo hướng ngày càng văn minh, hiện đại.
Năm 2022 lần đầu tiên Bộ đã phối hợp với tỉnh Nghệ An phát động xây dựng môi trường văn hóa cơ sở trong toàn quốc, qua đó tạo tiền đề quan trọng huy động cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tham gia, lấy nhân dân làm chủ thể, địa bàn tác nghiệp là phường xã, thôn bản; đồng thời tập trung xây dựng các mô hình điểm về xây dựng môi trường văn hóa tại địa phương, môi trường văn hóa công sở, văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân.
Sự liên kết, phối hợp của ba lĩnh vực gia đình - nhà trường - xã hội trong xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách cho giới trẻ tiếp tục được đẩy mạnh; phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh. Từ thực tiễn, trên bình diện quốc gia đã hình thành hàng ngàn thôn, xóm, bản làng văn hóa kiểu mẫu, khu dân cư kiểu mẫu mang trong mình nhiều sinh khí mới, trở thành làng quê đáng sống, vừa bảo tồn được những nét đặc sắc của văn hóa truyền thống, vừa văn minh hiện đại , khơi dậy tinh thần đoàn kết, nghĩa tình, lòng nhân ái, giúp đỡ lẫn nhau.
Hệ thống thiết chế văn hóa ngày càng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; phát triển văn hóa đọc và xây dựng xã hội học tập; phục vụ đa dạng nhu cầu học tập, sinh hoạt văn hóa, vui chơi, giải trí cho Nhân dân, góp phần đẩy lùi các tệ nạn xã hội và củng cố tinh thần đoàn kết trong cộng đồng dân cư. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao, nhất là ở các xã điểm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới; từng bước thu hẹp khoảng cách thụ hưởng văn hóa giữa các vùng miền, giữa các giai tầng xã hội. Chỉ số phát triển văn hoá đọc gia tăng bình quân 10%/năm, góp phần xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam.
4. Di sản văn hóa dân tộc được định vị đúng đắn, kết nối sâu rộng với du lịch và các ngành công nghiệp văn hóa tạo ra nhiều giá trị mới
Công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa được thực hiện nghiêm túc theo quy định của pháp luật và cam kết với UNESCO, bám sát quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính “Biến di sản thành tài sản”. Bộ đã phối hợp với các địa phương triển khai nhiều giải pháp căn cơ, gắn bảo tồn với phát huy giá trị di sản văn hoá các dân tộc thông qua hoạt động du lịch để kết nối các di sản, tạo nhiều không gian phát triển mới, chuyển đổi số mạnh mẽ trong lĩnh vực bảo tàng, di tích. Mối quan hệ giữa Việt Nam nói chung, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nói riêng với UNESCO được tăng cường.
Hiện nay, Việt Nam có hơn 40.000 di tích và gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể trên cả nước được kiểm kê, trong đó có 36 di sản được UNESCO công nhận/ghi danh; nhiều di tích tiếp tục được quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo, trở thành điểm đến hấp dẫn du khách, qua đó góp phần phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, đồng thời tạo việc làm mới và sinh kế cho người dân.
5. Công nghiệp văn hóa có khởi sắc rõ rệt, vừa góp phần đáp ứng nhu cầu thụ hưởng văn hóa, nghệ thuật của người dân, vừa đóng góp thực chất cho tăng trưởng kinh tế của đất nước
Các ngành công nghiệp văn hóa được thúc đẩy phát triển đúng hướng, đạt nhiều kết quả, dấu ấn nổi bật. Đặc biệt, Bộ đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ tổng kết Chiến lược 1755 gắn với tổ chức Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam năm 2023; trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 29.8.2024 về việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam và nhiều chính sách cụ thể khác theo phương châm "sáng tạo - bản sắc - độc đáo - chuyên nghiệp - cạnh tranh". Qua đó, kiến tạo không gian phát triển mới cho sự bứt phá của các ngành công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí.
Bộ đã triển khai hiệu quả Đề án Phát triển mạng lưới thành phố sáng tạo ở Việt Nam; chỉ đạo tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, nghệ thuật với quy mô cấp quốc gia, mang tầm quốc tế phản ánh được hơi thở cuộc sống, đạt chiều sâu về nghệ thuật, vừa phục vụ các nhiệm vụ chính trị, vừa đáp ứng nhu cầu thụ hưởng nghệ thuật ngày càng cao của người dân.
Hàng ngàn sự kiện âm nhạc, điện ảnh do các cơ quan truyền thông, doanh nghiệp tổ chức có quy mô lớn đã thu hút hàng triệu lượt khán giả tham dự và trở thành điểm hẹn hấp dẫn của nhiều nghệ sĩ nổi tiếng trên thế giới, góp phần kích cầu du lịch, thu hút đầu tư, tạo việc làm mới, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Công tác bảo vệ quyền tác giả và các quyền liên quan tiếp tục đạt nhiều kết quả rất tích cực với điểm nhấn là hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện; hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm về bảo vệ quyền tác giả, quyền liên quan được tăng cường; công tác truyền thông, tập huấn nâng cao năng lực thực thi quyền, trách nhiệm của các chủ thể liên quan được tổ chức thường xuyên…, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho đội ngũ văn nghệ sĩ toàn quốc và có nhiều chỉ số đạt chuẩn quốc tế .
Có thể khẳng định, chưa bao giờ các ngành công nghiệp văn hóa với các lĩnh vực trọng điểm như nghệ thuật biểu diễn, công nghiệp giải trí, du lịch văn hóa, trò chơi điện tử… phát triển với tần suất, quy mô, số lượng, chất lượng đa dạng, phong phú, hiện đại như trong nhiệm kỳ này. Theo thống kê, các ngành công nghiệp văn hóa trong giai đoạn 2020 - 2025 đã đóng góp gần 4,4% vào GDP của đất nước.
6. Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai thực chất hơn, từng bước thu hẹp khoảng cách thụ hưởng văn hóa giữa các vùng miền, nhất là khoảng cách giữa đô thị với nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng sa, biên giới hải đảo
Bám sát chỉ đạo của Bộ Chính trị, Chính phủ về công tác dân tộc trong tình hình mới, Bộ tập trung triển khai hiệu quả, thực chất việc xây dựng và nhân rộng các mô hình gìn giữ, phát huy phong tục tập quán, lối sống, nếp sống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc thiểu số, gắn với phát triển du lịch và tạo sinh kế cho người dân, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh biên cương và văn hóa tư tưởng. Song song với công tác tham mưu, đề xuất hoàn thiện chính sách pháp luật, Bộ đã phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương, các địa phương định kỳ tổ chức chuỗi sự kiện, ngày hội, liên hoan văn hóa, thể thao và du lịch các dân tộc thiểu số tạo thành hệ sinh thái đa dạng về nội dung, phong phú về hình thức, tạo không khí đoàn kết, vui tươi, phấn khởi, khơi dậy sức mạnh nội sinh nhằm hiện thực hóa khát vọng vì một Việt Nam hùng cường.
7. Văn hóa đối ngoại đạt nhiều dấu ấn mới, từng bước chuyển đổi căn bản từ “Gặp gỡ, giao lưu” sang “Hợp tác đích thực”
Các hoạt động văn hóa đối ngoại được triển khai tích cực, bài bản theo hướng thực chất, chuyển mạnh từ tư duy “gặp gỡ, giao lưu” sang “hợp tác đích thực”, các bên cùng có lợi, bám sát tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị 25-CT/TTg ngày 10.9.2021 về việc đẩy mạnh triển khai Chiến lược Văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2030.
Văn hóa đối ngoại trở thành một cấu phần quan trọng của các hoạt động đối ngoại cấp cao và các cấp. Lần đầu tiên Việt Nam đảm nhận cương vị tại 06 cơ chế điều hành then chốt của UNESCO. Đã tổ chức thành công 24 Tuần/Ngày văn hóa, lễ hội văn hóa, du lịch Việt Nam ở nước ngoài, góp phần xây dựng thương hiệu, phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và nâng cao vị thế của đất nước; nâng cao chỉ số sức mạnh mềm của Việt Nam (năm 2024 tăng 16 bậc so với 2023, xếp thứ 53/193 quốc gia, vùng lãnh thổ).
8. Du lịch Việt Nam trở thành điểm sáng trong bức tranh kinh tế đất nước sau đại dịch Covid-19, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư, tạo việc làm và quảng bá hình ảnh Việt Nam
Trong nhiệm kỳ này, ngành du lịch thế giới cũng như Việt Nam trải qua nhiều biến động lớn, đặc biệt là ảnh hưởng do đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, chính trong khó khăn, thách thức, du lịch Việt Nam đã ghi nhận nhiều thành tựu quan trọng. Du lịch đã ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, bảo vệ môi trường, giữ vững quốc phòng, an ninh quốc gia và nâng cao hình ảnh, vị thế, uy tín của Việt Nam.
Bộ đã chủ động, tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 509/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 82/NQ-CP và Chỉ thị số 08/CT-Tg.
Việt Nam tiếp tục được vinh danh là “Điểm đến di sản hàng đầu thế giới” và lần thứ 4 liên tiếp được vinh danh là “Điểm đến hàng đầu châu Á” tại Giải thưởng Du lịch Thế giới (World Travel Awards). Ngành du lịch đang phấn đấu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp trực tiếp 7- 9% vào GDP và tạo ra khoảng 5,5 triệu việc làm, trong đó có 1,8 triệu việc làm trực tiếp.
9. Thể dục, thể thao đạt nhiều thành quả tích cực, góp phần quan trọng nâng cao tầm vóc, thể trạng làm cho “dân cường, nước thịnh”, thúc đẩy sự đoàn kết, xây dựng cộng đồng khỏe mạnh và năng động, sáng tạo
Thể dục thể thao tiếp tục đạt được những dấu ấn quan trọng đáng ghi nhận: Phong trào thể dục thể thao cho mọi người với cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” trên tinh thần “Dân cường - Quốc thịnh” tiếp tục phát triển sâu rộng, hiệu quả thực chất.
Nhiều hoạt động TDTT được tổ chức sôi nổi, rộng khắp cả nước, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia; số người tập luyện thể dục, thể thao thường xuyên trên toàn quốc năm sau cao hơn năm trước .
Thể thao thành tích cao có nhiều tiến bộ với nhiều thành tích đáng chú ý ở khu vực, quốc tế và thế giới: SEA Games 31 được tổ chức chu đáo, thành công rực rỡ, để lại ấn tượng tốt đẹp đối với nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế;
Việt Nam 2 lần liên tiếp dẫn đầu 2 kỳ SEA Games, đặc biệt lần đầu tiên giành được ngôi nhất toàn đoàn ở một kỳ đại hội tổ chức ở nước bạn; Đoàn Thể thao Việt Nam hoàn thành chỉ tiêu đề ra tại ASIAD 19 với 03HCV, 05HCB, 19HCĐ; Bóng đá Việt Nam và các môn thi đấu quan trọng khác tiếp tục có nhiều khởi sắc .
Việc đăng cai thành công các giải thể thao lớn và việc đạt thành tích cao trên đấu trường khu vực và quốc tế vừa góp phần nâng cao hình ảnh đất nước, tạo niềm tin, phấn khởi trong xã hội, thúc đẩy, động viên việc rèn luyện thể dục thể thao, nhất là thể thao thành tích cao và thi đấu chuyên nghiệp; đồng thời cũng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
10. Công tác báo chí, truyền thông, xuất bản đạt nhiều thành tựu mới
Báo chí và xuất bản đã thực hiện tốt chức năng là diễn đàn, tiếng nói của nhân dân, góp phần quan trọng thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, kịp thời phát hiện và biểu dương những mô hình hay, cách làm sáng tạo, những điển hình tiên tiến;
Chủ động tích cực tuyên truyền các giải pháp của Đảng, Nhà nước nhằm phát triển kinh tế, xã hội; nâng cao niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, hun đúc lòng yêu nước, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc; tích cực trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác, tiếp tục đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, phản bác các luận điểm sai trái.
Báo chí đã góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Thông tin cơ sở có đóng góp đáng kể vào việc tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở, phục vụ hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền cơ sở.
Trong lĩnh vực xuất bản, việc chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh doanh truyền thống sang ứng dụng công nghệ, mở rộng liên kết chuỗi, phát triển các kênh thương mại điện tử. Đổi mới trong nhận thức, đổi mới trong phương thức xuất bản, đổi mới trong cách tiếp cận bạn đọc để xuất bản phát triển mạnh mẽ hơn theo hướng dân tộc hoá, đồng thời hiện đại hoá bằng công nghệ số, đại chúng hoá thông qua đa nền tảng số.
Xây dựng Đảng về chính trị được chú trọng, tăng cường. Xây dựng chương trình, kế hoạch và nghiêm túc triển khai thực hiện các văn bản chỉ đạo, các nghị quyết hội nghị, chỉ thị, kết luận… của Trung ương, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương, Đảng ủy Chính phủ. Đảm bảo 100% cán bộ, đảng viên nghiên cứu, học tập Nghị quyết các Hội nghị Trung ương, các nghị quyết chuyên đề của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt chuyên đề gắn với giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng viên.
Tập trung tổ chức học tập và nghiên cứu các bài phát biểu quan trọng của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về xây dựng và phát triển toàn diện văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Đặc biệt, tổ chức nghiên cứu, học tập các bài viết, bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình; sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả; phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, hội nhập quốc tế, xây dựng thể chế pháp luật, phát triển kinh tế tư nhân ... trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Qua đó góp phần quan trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên vào đường lối, chủ trương của Đảng.