Bác Hồ, một cây bút tiểu phẩm tài hoa

GS.TS TẠ NGỌC TẤN

VHO - Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ là người khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam, nhà báo cách mạng số một của chúng ta, Người “có duyên nợ với báo chí”, cũng là một cây bút viết tiểu phẩm tài hoa, đặc sắc.

 Bác Hồ, một cây bút tiểu phẩm tài hoa - ảnh 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Ảnh: TƯ LIỆU

 Nói đến tiểu phẩm là nói đến một thể loại châm biếm, tạo ra tiếng cười phê phán, dung lượng rất ngắn gọn. Tiểu phẩm cũng là một thể loại rất khó viết, nhất là viết để đạt được độ hấp dẫn, sự thuyết phục và dẫn dắt được nhận thức của người đọc. Cũng từ những cái khó ấy mà ta có thể thấy rõ hơn sự tài hoa, độc đáo của Bác Hồ trong các tiểu phẩm.

Theo thống kê chưa đầy đủ của chúng tôi, Bác Hồ đã viết và công bố khoảng 200 tiểu phẩm. Những tiểu phẩm đầu tiên của Người viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo Le Paria từ năm 1922. Tiểu phẩm cuối cùng của Người có nhan đề Tổng Giôn và vụ giết chết nghị sĩ Kennơđi đăng trên báo Nhân Dân số 5.175 ra ngày 13.6.1968. Thời kỳ Bác Hồ viết tiểu phẩm nhiều nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đề tài chủ yếu của các tiểu phẩm trong thời kỳ này là châm biếm phê phán những âm mưu, chính sách phản động, những tội ác và những thất bại của chúng trong cuộc chiến tranh chống lại nhân dân ta. Ngoài ra, Người cũng viết một số tiểu phẩm phê phán những sai lầm, khuyết điểm của các tổ chức đảng và chính quyền ở một số địa phương, phê phán những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan vẫn còn tồn tại trong nội bộ xã hội ta.

Đối với loại đề tài thứ nhất, các tiểu phẩm bao giờ cũng được thể hiện với thái độ quyết liệt, không khoan nhượng, giọng điệu châm biếm rất sâu cay. Đối với các tiểu phẩm về loại đề tài thứ hai, thái độ phê phán thường được thể hiện như sự nhắc nhở, gợi mở theo hướng tích cực, giọng điệu châm biếm nhẹ nhàng, đôi khi pha lẫn sự hài hước, dí dỏm.

Như trên đã nói, tiểu phẩm là một thể loại khó viết, kén người viết. Cái khó của tiểu phẩm, trước hết liên quan đến đặc điểm phê phán thông qua sự châm biếm và gắn liền tiếng cười. Sự châm biếm và tiếng cười phê phán trong tiểu phẩm thể hiện toàn diện trong mỗi tác phẩm, từ cách chọn vấn đề, sự kiện, chọn chi tiết thông tin, xây dựng kết cấu, sử dụng câu chữ và các thủ pháp nghệ thuật ngôn từ. Các tiểu phẩm của Bác Hồ thể hiện một cách tài hoa, độc đáo những đặc trưng làm nên tiểu phẩm và làm cho tiểu phẩm phân biệt với các thể loại tác phẩm báo chí khác. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu một số nét về nghệ thuật ngôn từ đã góp phần làm nên tiếng cười châm biếm đặc sắc trong tiểu phẩm của Bác Hồ.

 Bác Hồ, một cây bút tiểu phẩm tài hoa - ảnh 2
Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà báo, năm 1960. Ảnh: TTXVN

1 Nghệ thuật phiên âm, chuyển ngữ trong các tiểu phẩm. Tên tiếng Anh của các nhân vật trong giới chính trị, quân sự Mỹ và chính quyền Sài Gòn đương thời cùng một số chính trị gia của một số nước theo đuôi chính sách phản động, tiếp tay thực dân Pháp, đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh chống lại độc lập, tự do của nước ta, được Bác Hồ đã phiên âm, chuyển ngữ thành những cái tên vừa mang nghĩa xấu hay hài hước, vừa thể hiện sự châm biếm, phê phán.

Tất cả các tổng thống Mỹ liên quan đến chiến tranh Việt Nam đều được Bác Hồ “phong tặng” những cái tên để đời. Harry S.Truman, Tổng thống Mỹ thứ 33 (nhiệm kỳ 1945-1953) được gọi là Tu-ma trong tiểu phẩm “Tu-ma đầu bò” (báo Cứu quốc ngày 19.11.1951). Nội dung tiểu phẩm rắt ngắn, chỉ gói gọn trong chưa đầy 200 âm tiết nói về câu chuyện trao đi đổi lại giữa hai người lính gác, một của Liên Xô và một của Mỹ, tại đường phân giới ở Berlin (nước Đức) vào thời điểm năm 1951. Người lính Mỹ khoe: “Ở nước tao, tự do dân chủ hơn ở Nga. Này như tao đây, mai kia tao về Mỹ, tao có thể đến gặp tổng thống Tu-ma, và bảo ông ta: “Ông Tu-ma, ông là đầu bò”. Tuy vậy, ông Tu-ma cũng không phạt tao”. Người lính Hồng quân nói lại: “Ở nước tao mới thật tự do dân chủ. Này như tao đây, mai kia tao về Liên Xô, tao có thể đến gặp đồng chí Stalin và nói: “Thưa đồng chí, “Tu-ma là đầu bò”. Tuy vậy, đồng chí Stalin không những không phạt tao, mà còn cho tao nói đúng”. Tác phẩm kết bằng câu mô tả hành vi của hai người lính sau câu chuyện, “Thế rồi hai chiến sĩ bắt tay nhau cười”. Không có một lời bình luận hay nhận định đánh giá nào. Cái cười châm biếm để cho người đọc tự suy luận từ nội dung của hai lời nói của hai người lính và bằng cách phiên âm tên ông Truman là Tu-ma, cách định danh Tu-ma là “đầu bò”. Và đặc biệt là sự trùng hợp giữa cách phiên âm tên tổng thống Mỹ Truman thành “Tu-ma” với tiếng của người Tày, tu ma nghĩa là con chó.

Tên của Tổng thống Mỹ thứ 34 (nhiệm kỳ 1953-1961) Dwight D. Eisenhower, được phiên âm với chỉ một âm tiết đầu thành Ai hay tổng Ai như “Mấy lời thành thật ngỏ cùng tổng Ai” (báo Nhân Dân ngày 26.9.1960), “Trong trần ai, ai cũng ghét Ai” (báo Nhân Dân ngày 20.1.1961); hoặc “Ông IKE Tổng thống Mỹ (Thư không dán, báo Nhân Dân ngày 6.12.1959)… Tên của John F. Kennedy, Tổng thống Mỹ thứ 35 (nhiệm kỳ 1961- 1963) được Bác Hồ gọi là tổng Ken: “Ngày 1.3.1961, tổng Ken ra lệnh cho Bộ Ngoại giao Mỹ tổ chức những đôi hòa bình…” (Hòa bình kiểu Mỹ, báo Nhân Dân ngày 15.3.1961), “Uy tín” tổng Ken tức là “uy tín” Mỹ ngày càng xuống dốc. Không phải là những người chống đế quốc Mỹ nói như vậy, mà chính là dư luận Mỹ và dư luận thế giới nói như vậy” (“Uy tín” Mỹ xuống dốc, báo Nhân Dân 22.9.1961)…

Lyndon B.Johnson, Tổng thống Mỹ thứ 36 (nhiệm kỳ (1963- 1969), được gọi là tổng Zôôn, tổng Giôn như: “Xin mời Ken hãy rốn ngồi/ Để nghe Zôôn kể khúc nhôi đoạn trường” (Đế quốc Mỹ bi và bí, báo Nhân Dân ngày 7.3.1964); “Tổng Giôn chỉ xâu thành chuỗi những lời dối trá mà y đã lặp đi lặp lại hàng chục lần rồi” (Đại bợm Giôn xơn miệng nói “hòa bình” tay vung “binh hỏa”, báo Nhân Dân ngày 14.4.1965)…

Một loạt tướng lĩnh, chính trị gia, bộ trưởng của Mỹ, Pháp, các nước chư hầu của Mỹ đều được chỉ mặt đặt tên với nghĩa phê phán hay ẩn ý châm biếm, hài hước: D. MacArthur Tư lệnh lục quân Mỹ được phiên thành Mặt Ác tệ; Paul Harkins tướng 4 sao, Tư lệnh Bộ chỉ huy Cố vấn Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV) - tướng Hắc ín; W.C. Westmoreland, viên tướng kế nhiệm P. Harkins ở MACV - Bại tướng Vét mỡ lợn, Vét mò lên, Vét; Robert S. McNamara Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - Mặt nạ ra ma; Henry Cabot Lodge Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn - Cá bỏ lọt; Tổng thống Philippine F. Marcos, người cử quân đội tham chiến với Mỹ ở Việt Nam - Ma cô; v.v…

Phiên âm tên người từ tiếng nước ngoài ra tiếng Việt còn là cách để Bác Hồ chơi chữ, tạo ra ý nghĩa châm biếm, hài hước. Phân tích về tình hình phản đối chính sách chiến tranh của chính quyền Italia do Mutxolini cầm đầu, Bác Hồ có tiểu phẩm Ý đại lợi thực bất đại lợi, trong đó dùng phiên âm Hán Việt tên nước Italia để diễn đạt sự châm biếm. Viết về những phát ngôn huênh hoang, sai sự thật của tướng Pháp J.L. Tassigny, Bác Hồ dùng ngay âm tiết đầu tiên trong phiên âm tên ông ta để chơi chữ: “Tátxinhi bị tát” (báo Nhân Dân ngày 3.1.1952). Viết về tình trạng thua trận của quân đội Mỹ tại Nam Việt Nam dưới sự chỉ huy của tướng Maxwell D. Taylor, Bác Hồ nhận xét: “Tay lo rồi chân cũng lo!” (báo Nhân Dân ngày 20.7.1964).

 Bác Hồ, một cây bút tiểu phẩm tài hoa - ảnh 3
Bác Hồ đọc báo tại chiến khu Việt Bắc. Ảnh: TƯ LIỆU

2 Sử dụng những câu thơ như một thủ pháp nghệ thuật làm tăng tính biểu cảm, làm sâu sắc thêm ý nghĩa của vấn đề đặt ra trong tiểu phẩm. Thơ ca là một hình thức diễn ngôn hàm súc, có sức biểu cảm mạnh mẽ, lại dễ nhớ do có vần điệu. Trong truyền thống văn hóa lâu đời của Việt Nam, thơ ca hay cách ăn nói có vần điệu đã trở thành một phương tiện giao tiếp, cách thức truyền thông rất phổ biến trong đời sống người dân, trong đó, thể thơ lục bát dễ nhớ, dễ gieo vần, là một sáng tạo vô cùng độc đáo của người Việt Nam. Trong nhiều tiểu phẩm của mình, Bác Hồ đã sử dụng những câu thơ một cách sáng tạo để kết luận, hoặc đôi khi mở đầu bài viết.

Tiểu phẩm Xa lăng xà lù (báo Nhân Dân ngày 30.3.1952) mở đầu bằng hai câu thơ: Huênh hoang nào có được đâu/Huênh hoang hôm trước, hôm sau thẹn thùng. Sau khi dẫn các tuyên bố huênh hoang của viên tướng Pháp R.L.Salan (phiên tiếng Việt - Xa lăng) về tương lai thắng lợi của Pháp và các chứng cứ thực tế về thất bại của Pháp trong cuộc chiến ở Việt Nam, Bác Hồ hạ mấy câu thơ kết luận: Xa lăng xà lù/Càng nói càng ngu,/ Ta đánh mạnh, đánh mãi/Giặc thất bại lu bù. Trong lời kết luận trên, Xa lăng đi kèm với xà lù (phát âm từ tiếng Pháp: salaud, có nghĩa là thằng khốn), một tiếng chửi rất nặng nề trong tiếng Pháp. Chi tiết này càng tăng sức nặng châm biếm, khinh miệt đối với viên tướng bại trận của đội quân viễn chinh xâm lược Pháp.

Tiểu phẩm Giả nhân giả nghĩa (báo Nhân Dân ngày 29.9.1961) viết về kết quả Hội nghị các nước trung lập tổ chức tại Belgrade, Thủ đô Nam Tư, tháng 9.1961, có kết quả không như ý đồ của Mỹ. Mặc dù trước Hội nghị, bộ máy chính trị Mỹ đã tuyên truyền vận động, dùng cả viện trợ để lôi kéo nhiều quốc gia ủng hộ chính sách của Mỹ, nhưng các đại biểu dự Hội nghị vẫn tuyên bố ủng hộ các nguyên tắc chung sống hòa bình, giải trừ quân bị, xóa bỏ chế độ thực dân, trả quyền độc lập cho các dân tộc đang bị áp bức… Trong số nguyên thủ quốc gia, nhà hoạt động xã hội dự họp có cả những người đại diện cho những nước đã và đang nhận được tài trợ từ Mỹ. Từ đó, tác giả kết luận tác phẩm bằng hai câu thơ: Đô la không mua được lương tâm,/Phen này Mỹ lại phơi trần mặt mo! Chỉ bằng hai câu thơ đã không chỉ thâu tóm, khái quát được bản chất của vấn đề, mà còn tạo nên sự phê phán, châm biếm thật độc đáo.

Trong thời kỳ Mỹ bắt đầu nhúng tay vào cuộc chiến tranh Việt Nam, từ vai trò người bảo trợ cho đến khi trực tiếp can thiệp, đưa quân vào tham chiến, phần lớn các tiểu phẩm báo chí của Bác Hồ đều viết về những vấn đề nội bộ của xã hội Mỹ và vai trò, trách nhiệm, sự thất bại được báo trước của chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ. Nói về tình trạng giết người từ những vụ ám sát, xả súng xảy ra như cơm bữa ở Mỹ (Tổng Giôn và vụ giết chết nghị sĩ Kennơđi, báo Nhân Dân ngày 15.6.1968), tác giả kết luận: Mỹ là một nước văn minh/Giết người như chuột, tội tình gì đâu.

Nhân chuyện một số quan thầy người Mỹ gọi nịnh Ngô Đình Diệm là “Lãnh tụ tự do”, đồng thời chính quyền Sài Gòn cũng thường xuyên ca ngợi nước Mỹ là đất nước tự do, Bác Hồ viết tiểu phẩm Lãnh tụ tự do (báo Nhân Dân ngày 16.5.1959). Sau khi dẫn các số liệu về tình trạng phân biệt chủng tộc, tội phạm giết người, tội phạm trộm cướp, hãm hiếp, đàn áp chủng tộc ở nước Mỹ, đưa ra những chứng cứ về dư luận thế giới lên án những chính sách phản dân chủ, phá hoại hòa bình của chính quyền Ngô Đình Diệm, tác giả kết thúc tiểu phẩm bằng mấy câu thơ: Mỹ thày ban cho Diệm trò/Cái tên “lãnh tụ tự do”/Thật ra là cái mặt mo/Buôn dân, bán nước, tội to tày trời. Những câu thơ không chỉ là khái quát bản chất phi nghĩa, xấu xa của mối quan hệ giữa chính quyền Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, mà còn có ý nghĩa phê phán rất nặng, như một câu chửi thậm tệ.

Trong tiểu phẩm Những lời nói phá hoại và quanh co trong những câu văn dịch vụng (báo Nhân Dân ngày 20.7.1955), Bác Hồ phê phán thái độ vòng vo, lúng túng, rào đón vụng về trong truyên bố của chính phủ Ngô Đình Diệm chống lại hiệp thương thống nhất, tổng tuyển cử, thực hiện Hiệp định Giơnevơ, và đi đến kết luận: Kẻ gian giả bộ người ngay/ Văn chương chữ nghĩa giả cầy khó nghe.

Nhân sự kiện ngày 26.4.1960, do cuộc đấu tranh của thanh niên, sinh viên, Tổng thống Hàn Quốc Lý Thừa Vãn phải từ chức, Bác Hồ viết tiểu phẩm Tổng Lý và tổng Ngô (báo Nhân Dân ngày 3.5.1960). Trong tiểu phẩm, tác giả nhắc lại chuyến thăm của Ngô Đình Diệm đến Xơun năm 1957, gặp gỡ và hội đàm với Tổng thống Lý Thừa Vãn, hai bên tâng bốc nhau là “chí sĩ”, tặng nhau học vị tiến sĩ danh dự và huân chương bậc cao, hết lời ca ngợi lẫn nhau về thành tích tự do, dân chủ. Song trên thực tế, cả Ngô Đình Diệm và Lý Thừa Vãn đều là những kẻ độc tài, hiếu chiến, tay sai theo đuôi Mỹ, đàn áp những người đấu tranh cho tự do, dân chủ. Tác phẩm kết luận bằng bốn câu thơ: Lý chí khỉ, Ngô chí khỉ/ Một cặp bù nhìn Mỹ/Lý đã nhào trước Ngô/Ngô sẽ nhào sau Lý”. Lời kết của tiểu phẩm cũng là một dự báo hoàn toàn chính xác việc Ngô Đình Diệm “sẽ nhào” sau Lý Thừa Vãn, chỉ có điều, số phận của Diệm thì thê thảm hơn nhiều. Trong khi Lý Thừa Vãn còn kịp chạy sang Honolulu (Mỹ) để sống những năm cuối đời thì Ngô Đình Diệm cùng em là Ngô Đình Nhu và cả người anh là Ngô Đình Cẩn đều bị giết trong cuộc đảo chính quân sự tháng 11.1963.

Những câu thơ trong các tiểu phẩm viết về đế quốc, thực dân, kẻ thù của dân tộc, những kẻ gây ra chiến tranh, mang lại chết chóc, đói nghèo cho nhân dân ta, đều rất sâu cay, quyết liệt, không khoan nhượng. Ngược lại, những câu thơ trong các tiểu phẩm phê phán những sai lầm, khuyết điểm, hủ tục, thói tật xấu trong nội bộ nhân dân và xã hội ta đều thể hiện một thái độ phê bình một cách khoan hòa, khuyến nghị một phương cách cụ thể cho việc sửa chữa, khắc phục.

Trong tiểu phẩm Tếu (báo Nhân Dân ngày 2.3.1962), Bác Hồ phê bình một số người lãng phí tiền bạc, thuê in thiếp chúc Tết, Người coi đó như là chuyện “tếu”, một biểu hiện của bệnh thành tích. Tiểu phẩm được kết luận bằng hai câu thơ châm biếm nhẹ nhàng, có tính chất nhắc nhở, khuyên răn: Có gì tếu bằng tếu này/Cái bệnh thành tích từ nay xin chừa! Nói về tình hình tiêu dùng lạc quá nhiều, “trên trời, dưới lạc” ở Nghệ An, trong khi lạc là một loại nông sản quý, có thể xuất khẩu ra nước ngoài để đổi lấy máy móc phục vụ cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, Bác Hồ viết tiểu phẩm Làm thế nào cho lạc thêm vui, (báo Nhân Dân ngày 14.3.1962). Bài viết được bắt đầu bằng mấy câu thơ vui mà gây ấn tượng mạnh do liên hệ giữa “ăn quà” với “gang”: “Dân Nghệ nhà choa/Mỗi năm ăn quà/Hết chín ngàn bảy (9.720) tấn gang”.

Từ tình hình tiêu dùng lạc ở Nghệ An, tác giả yêu cầu lãnh đạo địa phương phải vận động nhân dân, tiết kiệm tiêu dùng lạc và những thứ nông sản khác, bán cho nhà nước để xuất khẩu đổi lấy máy móc. Tiểu phẩm kết lại bằng hai câu thơ lục bát, pha chất hài hước, dí dỏm, nhẹ nhàng như lời khuyên nhủ chân tình giữa những người thân, ruột thịt: Làm thế nào cho lạc thêm vui/ Đổi lấy máy móc, thì bầy tui quyết làm!

Có thể nói, Bác Hồ đã sử dụng những câu thơ một sách sáng tạo, độc đáo đã làm tăng tính biểu cảm trong diễn đạt ý nghĩa của vấn đề, sự kiện. Những câu thơ đó mang đến cho người đọc những trạng thái biểu đạt tình cảm rất phong phú, từ sự chia sẻ, nhắc nhở một cách cảm thông, mở đường sửa chữa đối với những khuyết điểm của cán bộ, nhân dân, đến sự phê phán, lên án nghiêm khắc, cả đòn đánh vỗ mặt quyết liệt, không khoan nhượng. Và bao trùm lên tất cả là nụ cười châm biếm hài hước ý vị. Đó là một yếu tố làm tăng tính hấp dẫn, thể hiện sâu sắc hơn ý nghĩa của vấn đề, sự kiện, đúng như kinh nghiệm dân gian “miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”.