Thủ tướng: Vững tin, có khí thế, động lực mới để phát triển ngành công nghiệp văn hóa

VHO - Phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, tổ chức vào sáng nay 22.12, tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ghi nhận và đánh giá cao sự chuẩn bị, báo cáo và các ý kiến đầy trách nhiệm tại Hội nghị.

Thủ tướng giao Bộ VHTTDL chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ tiếp thu các ý kiến; sớm hoàn thiện để trình ban hành văn bản phù hợp sau Hội nghị. “Tinh thần là sau Hội nghị có chuyển biến về nhận thức, tư duy và hành động, tạo ra sản phẩm, kết quả cụ thể cho phát triển các ngành công nghiệp văn hóa”, Thủ tướng nói.

Những kết quả đạt được là đáng trân trọng 

Thủ tướng nêu rõ 5 cơ sở chính trị rất quan trọng để phát triển ngành công nghiệp văn hóa, gồm 2 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, XIII, 2 Nghị quyết chuyên đề của Trung ương và chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Về tình hình phát triển công nghiệp văn hóa của Việt Nam, Thủ tướng chỉ rõ những kết quả đạt được là đáng trân trọng. Thứ nhất là đã có sự thống nhất chung trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thể hiện qua các Nghị quyết, Chiến lược, văn bản chỉ đạo, từ đó nhận thức chung trong xã hội về phát triển công nghiệp văn hóa đã được nâng lên.

Thủ tướng: Vững tin, có khí thế, động lực mới để phát triển ngành công nghiệp văn hóa - Anh 1

Thủ tướng phát biểu tại Hội nghị

Thứ hai, các cơ chế, chính sách pháp luật liên quan đến công nghiệp văn hóa được bổ sung, hoàn thiện phù hợp với tình hình và bối cảnh mới. Từ năm 2018 đến nay, Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua việc sửa đổi, bổ sung 4 Luật (Luật Điện ảnh (2022); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (2022); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng (2020); Luật Kiến trúc (2019) và ban hành 4 Nghị định liên quan đến công nghiệp văn. Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đã đưa ra chỉ tiêu phấn đấu giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP.

Thứ ba, ngành công nghiệp văn hóa đóng góp tích cực vào thành tựu phát triển KTXH chung của đất nước. Đóng góp của công nghiệp văn hóa năm 2021 đạt 3,92% GDP. Năm 2022, tăng lên 4,04% GDP.

Các sản phẩm công nghiệp văn hóa trên các lĩnh vực như âm nhạc, hội họa, văn chương, sân khấu, điện ảnh… ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của công chúng, trong đó nhiều sản phẩm có giá trị cao, tạo được tiếng vang trong nước và quốc tế. Nhiều di sản văn hóa được khai thác có hiệu quả; nhiều ca sĩ Việt đạt hàng trăm triệu lượt xem trên YouTube hay được yêu thích trên các nền tảng số khác trong và ngoài nước…

Thứ tư, ngày càng nhiều doanh nghiệp, người lao động tham gia phát triển công nghiệp văn hóa. Giai đoạn 2018-2022, số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa tăng khá cao ở mức 7,2%/năm (hiện có trên 70 nghìn cơ sở kinh tế). Lực lượng lao động thuộc các ngành công nghiệp văn hóa tăng khá nhanh ở mức 7,4%/năm (hiện thu hút khoảng 2,3 triệu lao động, chiếm 4,42% tổng lực lượng lao động của toàn nền kinh tế).

Thứ năm, mô hình tổ chức đào tạo nhân lực cho phát triển công nghiệp văn hóa từng bước được hoàn thiện theo hướng phù hợp, chuyên nghiệp, bài bản, nhất là cho tài năng trẻ trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật.

Thứ sáu, xây dựng mạng lưới liên kết, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong công nghiệp văn hóa được chú trọng, đạt được kết quả bước đầu. Mạng lưới liên kết, kết nối các trung tâm văn hóa, không gian sáng tạo trong nước và quốc tế dần hoàn thiện. Cơ sở dữ liệu về các di tích văn hóa - lịch sử, nhà hát, trung tâm biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim, bảo tàng được đẩy mạnh xây dựng, tạo nền tảng quan trọng xây dựng cơ sở dữ liệu toàn diện về du lịch văn hóa nói riêng, công nghiệp văn hóa nói chung.

Chưa phát triển xứng với tiềm năng

Tuy nhiên, công nghiệp văn hóa chưa phát triển tương xứng với tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của đất nước.

Về tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, Thủ tướng chỉ rõ, chưa quy định rõ vai trò quản lý nhà nước, trách nhiệm, quyền hạn đối với một số lĩnh vực trong ngành công nghiệp văn hóa như thiết kế mỹ thuật công nghiệp, thiết kế thời trang; cơ chế phối hợp thiếu đồng bộ.

Thủ tướng: Vững tin, có khí thế, động lực mới để phát triển ngành công nghiệp văn hóa - Anh 2

Hội nghị được kỳ vọng là tạo ra khí thế mới, động lực mới cho phát triển công nghiệp văn hoá 

Thể chế, cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa chưa theo kịp thực tiễn; công tác tổ chức thực hiện trong một số ngành, lĩnh vực thuộc công nghiệp văn hóa chưa hiệu quả như việc xử lý các vấn đề sao chép, vi phạm bản quyền... Nguồn lực đầu tư cho công nghiệp văn hóa chưa tương xứng, còn dàn trải; việc huy động các nguồn lực ngoài nhà nước, phương thức đối tác công tư (PPP) chưa đạt yêu cầu.

Nội dung, hình thức sản phẩm, dịch vụ trong các lĩnh vực công nghiệp văn hóa còn hạn chế, thiếu những sản phẩm, tác phẩm lớn, phản ánh được hơi thở, sự phát triển KTXH của đất nước; một số tác phẩm có biểu hiện “lệch chuẩn”; dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài như suy thoái kinh tế, dịch bệnh… Nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, cả về số lượng và chất lượng; thiếu chính sách đãi ngộ phù hợp.

Nhiều lĩnh vực trong công nghiệp văn hóa chưa chuẩn hóa được phương pháp thống kê, thiếu hệ thống theo dõi, nên rất khó đánh giá tình hình phát triển (hiện 3/5 lĩnh vực chủ yếu có chỉ tiêu theo dõi trong Chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa nhưng chưa có số liệu đánh giá cụ thể).

Về nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, Thủ tướng cho rằng, công nghiệp văn hóa có tiềm năng lớn, phong phú, đa dạng nhưng cơ chế, chính sách, thể chế còn hạn hẹp, chưa tương xứng với tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của đất nước.

Đây là lĩnh vực có nội hàm rộng, phạm vi lớn, đa ngành, lĩnh vực, phát triển văn hóa và công nghiệp văn hóa không phải nhiệm vụ của riêng Bộ VHTTDL mà cần huy động các cấp, các ngành, các địa phương cùng vào cuộc, huy động được sự đồng lòng, ủng hộ, tham gia tích cực của người dân, doanh nghiệp.

Chưa hình thành thói quen, ý thức trong việc tôn trọng, bảo vệ và tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa. Việc khai thác, sản xuất, sử dụng các sản phẩm, dịch vụ nhiều lúc, nhiều nơi chưa tuân thủ các quy định, nhất là về sở hữu trí tuệ.

Chưa thực sự chú trọng xây dựng, phát triển các sản phẩm, dịch vụ mang thương hiệu quốc gia với chất lượng, tính sáng tạo, giá trị thưởng thức và sử dụng cao, hình thức hấp dẫn, có tính cạnh tranh trong khu vực, quốc tế, phản ánh được vẻ đẹp của đất nước, con người, nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, sự phát triển năng động và khát vọng Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.

Chưa có chiến lược xúc tiến, quảng bá công nghiệp văn hóa tầm quốc gia, tầm quốc tế, xứng tầm với các sản phẩm văn hóa.

Thủ tướng cũng chỉ ra những bài học kinh nghiệm. Về hương hướng phát triển công nghiệp văn hóa trong thời gian tới, Thủ tướng cho rằng tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định. Sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế và cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng ngày càng quyết liệt, phức tạp hơn.

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hóa số... vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển văn hóa.  Những thách thức của an ninh truyền thống, an ninh phi truyền thống, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu... diễn biến ngày càng phức tạp, gây hậu quả nặng nề.

Về thách thức đặt ra, Thủ tướng nêu rõ, Việt Nam là nước đi sau trong việc phát triển công nghiệp văn hóa sau nhiều năm chiến tranh; các sản phẩm công nghiệp văn hóa của Việt Nam chịu sức cạnh tranh lớn. Phát triển công nghiệp liên quan đến yếu tố sáng tạo, đến nhân tố con người, nhưng chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao trong ngành công nghiệp văn hóa còn hạn chế, chưa đủ sức cạnh tranh với quốc tế. Đầu tư cho lĩnh vực công nghiệp văn hóa đòi hỏi nguồn vốn lớn nhưng gặp nhiều rủi ro, thời gian thu hồi vốn dài.

Về tiềm năng phát triển công nghiệp văn hóa, Thủ tướng khẳng định: Điều kiện, không gian phát triển công nghiệp văn hóa, đổi mới sáng tạo,  khoa học công nghệ và văn hóa nghệ thuật lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc, phù hợp xu thế thời đại, tiến bộ của nhân loại là không có giới hạn.

Các ngành công nghiệp văn hóa là ngành có triển vọng lớn, có thể phát triển nhanh, mang lại hiệu quả cao, là động lực mới cho sự phát triển văn hóa phù hợp với xu thế của thời đại.

Thủ tướng: Vững tin, có khí thế, động lực mới để phát triển ngành công nghiệp văn hóa - Anh 3

Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng trình bày báo cáo Trung tâm tại Hội nghị

“Chúng ta có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu đời, đa dạng, có bản sắc riêng với 54 dân tộc. Có thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp, đa dạng, phong phú. Người dân hiền hậu, mến khách, cần cù, linh hoạt, sáng tạo. Nguồn nhân lực trẻ, dồi dào. Thị trường có quy mô 100 triệu dân. Vị trí địa lý thuận lợi; hệ thống giao thông tương đối đồng bộ và đang phát triển theo hướng tăng cường liên kết. Hệ thống chính trị ổn định; an ninh trật tự, chủ quyền lãnh thổ được giữ vững. Cải cách hành chính và chuyển đổi số đang được đẩy mạnh toàn diện. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong gần 40 năm đổi mới, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay  tạo những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển nền văn hóa, văn học nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có ngành công nghiệp văn hóa.

Đồng thời, chúng ta đã và đang đẩy mạnh quá trình hội nhập sâu rộng về nhiều mặt, ngoại giao văn hóa, giao lưu nhân dân đang được thúc đẩy mạnh mẽ, tạo điều kiện, cơ hội cho phát triển KTXH, trong đó có công nghiệp văn hóa”, Thủ tướng nêu những thuận lợi trong việc phát triển công nghiệp văn hoá.

Dành gói tín dụng ưu đãi khoảng 20-30 nghìn tỉ đồng cho ngành công nghiệp văn hóa

Thủ tướng cũng nêu các quan điểm phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và 10 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm với tinh thần chung là các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức cần quyết tâm cao hơn, nỗ lực lớn hơn, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn, có trọng tâm, trọng điểm hơn nữa; chủ động, phối hợp chặt chẽ, tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp nhằm phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp văn hóa, khuyến khích mọi sự tìm tòi, sáng tạo, tôn trọng tự do sáng tạo; chú trọng những ngành có nhiều tiềm năng, lợi thế (như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, phần mềm và các trò chơi giải trí), để đến năm 2030 giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp cao vào GDP.

Về các nhiệm vụ cụ thể, các bộ ngành, cơ quan, địa phương liên quan phải tập trung tiếp tục cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý nhà nước, xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi, cách tiếp cận phù hợp, binh đẳng về chính sách thuế, đầu tư, đất đai, tiếp cận tín dụng và các chính sách khác.

Thủ tướng giao Bộ VHTTDL chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương liên quan: Tập trung hoàn thiện, trình dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, trong đó đề cập nhiệm vụ ban hành Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong giai đoạn mới.

Xây dựng sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hoá đặc trưng gắn với vùng miền, địa phương, đồng thời tham gia hiệu quả vào chuỗi cung ứng của hoạt động du lịch văn hóa. Nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách cụ thể hỗ trợ, khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia phát triển công nghiệp văn hóa, tham gia sáng tạo sản phẩm văn hóa (như về thuế, đất đai, đầu tư, tiếp cận tín dụng…), nhất là cho những lĩnh vực ưu tiên (như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa…) và các doanh nghiệp vừa và nhỏ; nghiên cứu thành lập các quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển sáng tạo…

Thủ tướng giao Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT, Ngân hàng Nhà nước chủ trì, phối hợp với Bộ VHTTDL và các Bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách liên quan, trong đó có các chính sách liên quan, trong đó chính sách ưu đãi đầu tư, hợp tác công - tư, quản lý tài sản công, thuế, hoàn thuế giá trị gia tăng, tiếp cận tín dụng đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư vào các ngành công nghiệp văn hóa, nhất là trong những lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thủ tướng yêu cầu các cơ quan tính toán dành gói tín dụng ưu đãi, trước mắt khoảng 20-30 nghìn tỉ đồng cho ngành công nghiệp văn hóa.

Giao Bộ Công Thương xây dựng các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa gắn với thực hiện chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ nghiên cứu sản xuất các sản phẩm, dịch vụ công nghiệp văn hóa có tiềm năng xuất khẩu.

Bộ NN&PTNT cần triển khai thực hiện tốt Chiến lược phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn 2045, trong đó tập trung đầu tư, khai thác, hỗ trợ phát triển nghề thủ công mỹ nghệ, bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình OCOP.

Thủ tướng cũng giao Bộ Xây dựng, Bộ GD&ĐT, Bộ LĐ,TB&XH, Bộ TT&TT; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp có liên quan.

Thủ tướng cho rằng một Hội nghị không thể giải quyết được tất cả các vấn đề đặt ra, nhưng tin tưởng rằng sau Hội nghị này, chúng ta sẽ vững tin hơn, có khí thế mới, động lực mới để phát triển ngành công nghiệp văn hóa.

THU SÂM – THU TRANG; ảnh: NHẬT BẮC

Ý kiến bạn đọc