Tình yêu đôi lứa trong “Dấu chân người lính” của Nguyễn Minh Châu, “Đất trắng” của Nguyễn Trọng Oánh và "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh:

Hành trình của những trái tim

DUY PHONG
Hành trình của những trái tim

VHO - Tình yêu là một đề tài vĩnh cửu của văn học nghệ thuật bao trùm lên đời sống, đồng hành cùng quá trình “sinh trưởng” của nhân loại qua mọi thời kỳ, ở mọi phương trời thuộc hành tinh Trái đất. Trong “thực thể” văn chương Việt, đây cũng là một nguồn cảm hứng lớn, xuyên suốt quá trình vận động và phát triển từ văn học dân gian, văn học trung đại đến hiện đại và đặc biệt thăng hoa ở những thời đoạn rực rỡ, thành tựu.

LTS: Tình yêu, dù trong bối cảnh chiến tranh, luôn là biểu tượng của hy sinh, khát khao hạnh phúc và niềm tin vào tương lai. Trong ba tiểu thuyết Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, tình yêu thể hiện rõ qua những mối quan hệ lứa đôi giữa gian khổ chiến trường. Mỗi câu chuyện tình yêu, dù đậm nhạt khác nhau, đều mang giá trị nhân văn sâu sắc, là nguồn động lực giúp người lính vượt qua thử thách, hướng về tương lai tươi sáng. Văn Hóa xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc của tác giả Duy Phong - một hành trình tìm về những thân phận tình yêu nơi khói lửa: Từ lý tưởng cao cả đến nỗi đau day dứt của những trái tim người lính. 

Hành trình của những trái tim - ảnh 1

Là món quà ưu ái tạo hóa ban tặng cho đời sống con người, một đề tài vừa “vô cùng xưa cũ” vừa mới mẻ, nhưng mỗi thời đại văn học, mỗi trường phái, mỗi nhóm tác giả và tác giả sẽ có cách cảm nhận, khám phá và thể hiện riêng. Khi nằm trong khuôn khổ và dưới “sức phong tỏa” của đề tài chiến tranh, tình yêu trong ba tiểu thuyết Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã có sự thu hẹp về kích thước, mặc dầu vậy, nó vẫn hiện diện như một hình tượng tình yêu có sức cảm hóa và mang giá trị nhân văn sâu sắc. Giữa lằn ranh mong manh của sự sống và cái chết, trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ và ác liệt của cuộc chiến tranh, hơn lúc nào hết, người lính rất cần sự yêu thương, cần những điểm tựa tinh thần để cân bằng lại cuộc sống chiến trường vốn khốc liệt, dữ dội. Tình yêu, vì vậy, đối với họ là nguồn lực tiếp thêm sức mạnh để đối đầu với thử thách gian nan, là ánh sáng lấp lánh trong tâm hồn để hướng về Tổ quốc, là niềm tin, hy vọng về một ngày mai hòa bình, sum họp và hạnh phúc. Những câu chuyện tình yêu trong ba tác phẩm dù đậm nhạt, dài ngắn khác nhau đều là sự “phóng chiếu”, thể hiện cảm xúc lứa đôi mang tính đặc thù của những năm tháng trong và sau cuộc chiến tranh chống Mỹ.

Vận mệnh dân tộc đặt trên hạnh phúc cá nhân trong "Dấu chân người lính"

Dấu chân người lính, trước hết là một bản hùng ca chiến trận, một tiểu thuyết mang âm hưởng sử thi tôn vinh vẻ đẹp và sức mạnh cộng đồng, chính vì vậy, những cung bậc cảm xúc tình yêu đặt trong tương quan tác phẩm có phần mờ nhạt và bị lấn át. Đó cũng là một tất yếu bởi những năm tháng ấy, vận mệnh dân tộc đặt lên trên hạnh phúc cá nhân. Cả đất nước gồng mình chống chọi mưa bom bão đạn quân thù. Biết bao người đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ quốc. Có thể coi câu thơ: Khi riêng tư ta thấy mình xấu hổ của Chế Lan Viên là sự tỏ bày thành thật gợi nhớ về một thời cả dân tộc có cùng ý chí, chung “tâm hồn và ý nghĩ”.

Nằm trong quỹ đạo vận động đó, tình yêu trong Dấu chân người lính mang vẻ đẹp lý tưởng, cao cả giữa “bầu khí quyển vô trùng” của “ý thức tập thể”. Nhân vật Nết, một cô gái trẻ khi nhắc đến tình yêu đã để lại một “phát ngôn” thể hiện rất đúng sự lựa chọn và cách ứng xử của tuổi trẻ chống Mỹ: “Tao chỉ biết công tác cho tốt đã” (Nguyễn Minh Châu, 2001, Toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội, T1, tr.760). Tương tự nhưng có phần phức tạp hơn là mối cảm tình giữa Lượng và Xiêm. Đây là một sự “phải lòng” thầm kín: “Tình trong như đã mặt ngoài còn e” nhưng có phần éo le, trắc trở của một sĩ quan quân giải phóng và vợ một lính ngụy. Ở vào hoàn cảnh và thời điểm đó, kiểu “luyến ái” này rất dễ bị phản ứng từ phía khách quan, thậm chí có nguy cơ bị quy kết là “hủ hóa”, “mất lập trường tư tưởng”… Sau thương thầm, nhớ trộm, với Xiêm, có lúc cô như “bị ngọn lửa của tình yêu đốt cháy” (Sđd, T1, tr.751), với Lượng, mặc dù đã “cố quên đi để không bao giờ phải nghĩ đến Xiêm. Thế nhưng hình như lúc nào anh cũng tưởng như trông thấy đôi mắt Xiêm, đôi mắt như hai đốm hoa lửa bay qua một vùng sương mù của một đêm mùa xuân đến rình đậu bên anh” (Sđd, T1, tr 751)… Cuối cùng, Lượng đã khép lại mối tình “chông chênh”, thiếu điểm tựa sức mạnh bằng một sự lựa chọn “an toàn”. Anh dứt khoát “sẽ cắt đứt mối quan hệ tình cảm không biết nhen nhóm từ bao giờ giữa anh và Xiêm” (Sđd, T1, tr.751) nhưng vẫn không che giấu được một chút dối lòng, một cái gì như tự an ủi bởi “mối quan hệ ấy đã có gì đâu” (Sđd, T1, tr.751). Đó là cái kết cục không thể khác, nằm trong dự đoán người đọc nhưng vẫn để lại chút tiếc nuối, bởi đây là câu chuyện đời tư với những tình huống mang đậm chất tiểu thuyết hơn cả.

Ấn tượng và tiêu biểu nhất là mối tình học trò, trong trắng giữa Lữ và Hiền. Có thể nói đó là một mối tình của hai nhân vật được Nguyễn Minh Châu ưu ái và cảm mến nhất của Dấu chân người lính, được mô tả với những diễn biến khá cặn kẽ qua nhiều chương của tác phẩm. Họ là hai gương mặt đẹp đôi. Lữ gặp Hiền trên đường giao liên, anh nhận ra đây là cô gái mình thầm yêu từ năm mười sáu tuổi trong một lần cắm trại hè sau kỳ thi học sinh giỏi toàn khu vực. Giờ đây, Hiền đã trở thành một diễn viên xinh đẹp trong đoàn văn công Mặt trận đi biểu diễn phục vụ chiến sĩ Trường Sơn. Gặp lại Hiền trên chiến trường, những kỷ niệm tươi rói của mối tình đầu ngây thơ, trong sáng sống dậy, dù Lữ đã đi qua tuổi học trò: “Anh vẫn yêu Hiền. Anh vẫn yêu cô với tất cả sự hiểu biết và từng trải của anh hiện nay trong khói lửa” (Sđd, T1, tr.635) và hy vọng của Lữ lúc này chỉ thuần túy mang giá trị tinh thần rằng tiếng hát của Hiền sẽ mang lại sức mạnh thực sự cho người chiến sĩ cầm súng đang hằng ngày hằng giờ chịu đựng gian khổ và chiến đấu quên mình trên chiến trường.

Tuy nhiên, cũng có lúc Nguyễn Minh Châu chạm được vào những cung bậc tình cảm thường tình trong tình yêu, nhưng nó vẫn hơi “lên gân” một chút bởi tâm trạng nhân vật không chịu sự dẫn dắt của con tim mà vẫn giữ được sự sáng suốt của ý thức, của lý trí. Đó là những lúc Lữ có tâm lý ghen tuông khi thấy Hiền dành tình cảm cho Moan, người chiến sĩ cùng tổ máy đã nhận Lữ làm anh, và chính Lữ là người giới thiệu Moan vào Đoàn - một “sự kiện quan trọng” và là niềm vinh dự lớn của thanh niên thời đại chống Mỹ, nhưng khoảnh khắc “đáng xấu hổ” đó qua đi rất nhanh, Lữ lại trở về với nhịp đập bình thường của “trái tim thời chiến” và lấy lại tư thế cần có của người lính. Anh tự trách mình: “Sao có lúc mình lại sinh ra lẩm cẩm vô lý đến vậy? Tại sao mình lại đi ghen với bạn? Tại sao Hiền lại không thể quen biết và quan tâm đến Moan bằng tình đồng đội và tình bạn, cũng như mình” (Sđd, T.1, tr.779).

Và mặc dầu rất yêu Hiền, Lữ vẫn xác định hy sinh cả hạnh phúc cá nhân, chấp nhận thiệt thòi để dâng hiến tuổi xuân cho lý tưởng, cho Tổ quốc: “Không biết bao nhiêu ngày đêm, anh đã ngồi một mình trong căn hầm này, giữa miếng đất nóng bỏng lửa đạn này để viết cho Hiền những bức thư đầy các trang nhật ký và chẳng bao giờ gửi đi” (Sđd, T.1, tr.780). Có lúc anh tự giễu mình là đã ấp ủ và theo đuổi một mối tình viển vông, một tình yêu đơn phương… Nhưng vượt lên tất cả, anh hướng về một ngày mai toàn thắng. Khi đã hoàn thành sứ mệnh với đất nước, nhân dân, tình yêu đôi lứa mới thưc sự vẹn tròn: “Rồi khi nào chiến dịch kết thúc và thắng lợi, anh dự định sẽ chủ động đến tìm gặp Hiền… Anh sẽ thổ lộ mối tình yêu chân thành của anh với người con gái ấy - như là anh trao cho cô một trái cây đã chín đỏ trên cành cây tươi xanh. Anh sẽ cùng cô đứng giữa mảnh đất chiến trường không còn bóng một tên Mỹ…, đã hình dung được thế nào là lòng dũng cảm và tinh thần hy sinh quên mình, đã hiểu sâu xa hơn thế thế nào là chiến thắng và niềm vui chiến thắng (Sđd, T.1, tr.781).

Lữ đã hy sinh, và cái ngày “anh dắt tay em trời chi chít sao giăng” (thơ Phạm Tiến Duật) đã không đến với Hiền. “Dàn dựng” câu chuyện tình yêu này, Nguyễn

 Minh Châu dù ít nhiều tiếc nuối nhưng âm hưởng chính vẫn là sự ngợi ca thứ tình yêu cao quý, lý tưởng, luôn biết hy sinh cái riêng vì cái chung, hạnh phúc cá nhân vì cộng đồng. Đó là tiếng nói, là gương mặt tình yêu tiêu biểu của thế hệ trẻ những năm đầu kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Tình yêu lý tưởng mang xúc cảm đi thường trong "Đất trắng"

Tương tự Dấu chân người lính, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh tập trung khắc họa bộ mặt chiến tranh ở vào một thời điểm cam go, dữ dội nhất; chính vì vậy, tình yêu người lính chưa phải là mối quan hoài thường trực của Nguyễn Trọng Oánh. Trong tác phẩm, nó chỉ được đề cập với một tỷ lệ ít ỏi và chưa thật sâu sắc. Tuy nhiên, cùng với sự xuất hiện cảm hứng đời tư thế sự (dù chưa thực sự mạnh mẽ) và ý thức khám phá số phận cá nhân; bên cạnh những mối tình ít nhiều vẫn mang màu sắc lý tưởng, Nguyễn Trọng Oánh đã có những góc nhìn gần gũi, sẻ chia hơn trong những nhu cầu, khao khát tình yêu của người lính.

Những mối tình trong Đất trắng cũng được nảy nở trên chiến trường, cảm xúc lứa đôi chịu sự can dự và chi phối trực tiếp của cảm hứng chiến trận. Mối cảm tình của ông Thêm với cô y sĩ Út Lích là chân thực nhưng lại có quá nhiều những do dự, phân vân. Đầu tiên đó là sự chênh lệch về tuổi tác. Tiếp đến và quan trọng hơn là vai trò, tư cách trợ lý tuyên truyền trung đoàn của ông với nhiệm vụ chiến đấu hàng đầu: “Từ khi đi bộ đội, ông Thêm chưa nghĩ đến một người con gái nào. Chẳng lẽ bây giờ ông lại nghĩ về một cô gái kém ông gần 20 tuổi này” (Nguyễn Trọng Oánh, 2007, Đất trắng, T2, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.107-108) và: “Yêu iếc chi mặc, nhưng phải đánh giặc xong cái đã” (Sđd, tr.394). Nhưng tình yêu ở cái tuổi không còn trẻ trong ông vẫn luôn trỗi dậy, đòi lên tiếng: “Mình yêu rồi ư? Cũng lần đầu tiên trong đời ông tự hỏi như vậy. Yêu một cô gái kém mình đến gần hai chục tuổi. Rồi cả trung đoàn này người ta cười cho, người ta bảo ông già còn chơi trống bỏi. Mà sao mình lại sợ nhỉ? Thì đã sao? Mình yêu chính đáng mà” (Sđd, tr.180). Chỉ đến khi Út Lích, một cô gái trẻ Nam Bộ với tính cách mạnh mẽ, chân chất đã hóa giải dùm ông những khúc mắc trong lòng bằng một thứ lý lẽ hết sức đơn giản, hết sức đời thường nhưng cũng đầy sức thuyết phục: “Cương vị anh không lấy được vợ à anh Hai (…). Sao anh cứ giữ gìn quá vầy cho khổ anh Hai, yêu em thì có chi mà sợ” (Sđd, tr.282).

Xây dựng mối tình giữa ông Thêm và Út Lích, Nguyễn Trọng Oánh đã mang đến cái nhìn hòa hợp giữa tình yêu và chiến tranh. Ông muốn lý giải nó như một sự bù đắp, sự “làm đầy” và tăng thêm hương vị cho cuộc sống chiến tranh vốn căng thẳng, quyết liệt. Người lính, bên cạnh hành động chiến đấu gan dạ, dũng cảm, họ cần những góc cảm xúc riêng tư, những rung động tình yêu và cần được hưởng hạnh phúc lứa đôi…

Theo bước chân nhân vật, Đất trắng còn để lại những mối tình hoặc dang dở, hoặc luôn phải đón nhận những trở lực của chiến tranh mà những người tham gia chiến đấu không thể khắc phục vượt qua để đến với tình yêu như mong đợi. Đó là mối tình của An và Sáu Trang mà hoàn cảnh chiến đấu là nhân vật tạo ra khoảng cách và trò chơi đuổi bắt giữa hai người mặc dầu họ không mong muốn: “Mối tình của hai người cứ vậy, như trò chơi hú tìm với nhau, chẳng biết đến bao giờ anh cầm được tay cô một lần nữa như hồi ở dưới hầm Tân Thới Hiệp. Một người thì giận, một người thì buồn. Khoảng cách của tình yêu giữa họ chỉ có một tí, một tí, vậy mà như hai con quay, nó quay tưởng như chạm vào nhau đến nơi thì vù một cái lại ra xa” (Sđd, tr.147).

Sự lỡ nhịp, trò đùa đó, rõ ràng là do đời sống khách quan chiến tranh mang lại. Cảm nhận thấm thía điều đó, là người lính trẻ, khác với sự lưỡng lự ở cái tuổi trung niên của ông Ba Thêm, hơn ai hết An muốn chạy đua với thời gian và sự mong manh của sinh mệnh người lính trên chiến trường bằng quyết tâm thổ lộ tình yêu: “Trong cuộc chiến tranh này, mọi chuyện có thể xảy ra ngay trong đêm nay, hay trong ngày mai. Cho nên, cái điều chưa nói phải được nói” (Sđd, tr.153). Thế nhưng, dù dứt khoát với lòng mình: “Bằng bất cứ giá nào anh cũng phải gặp cho được cô gái”, An cũng đành bất lực: “Tôi về tiểu đoàn thì cô ấy xuống đại đội. Tôi xuống đại đội thì cô ấy sang sông. Tôi sang sông thì cô ấy vô trong ấp” (Sđd, tr.325)…

Mối tình của Quá và Bảy Hường còn thương tâm hơn. Cũng bởi dự cảm về khoảng cách nhỏ nhoi giữa sự sống với cái chết trong đời người lính trên chiến trường nên Quá không dám bày tỏ trực tiếp tình cảm với Bảy Hường. Cái còn lại giữa hai người cũng chỉ là những dòng chữ yêu thương sau những tấm hình trao nhau làm kỷ niệm: “Khi nào hòa bình thống nhất đất nước anh sẽ đưa em về Hà Nội” (Sđd, tr.209). Và mơ ước đó vĩnh viễn không thành: Bảy Hường đã hy sinh trên đường tải thương. Đất nước đã có ngày thống nhất, Nam Bắc đoàn tụ, nhưng đôi lứa vẫn còn quá nhiều người không có ngày sum họp.

Viết về tình yêu trong chiến tranh, Nguyễn Trọng Oánh không có nhiều thứ ánh sáng lấp lánh của Nguyễn Minh Châu, nhưng những trang văn của ông gần với xúc cảm đời thường, ngậm ngùi, xót xa hơn trước những thiệt thòi, mất mát và người lính phải gánh chịu. Với cảm quan tình yêu đó, Nguyễn Trọng Oánh đã mở ra một chiều hướng tiếp cận với nhiều góc nhìn mới, buồn bã hơn nhưng cũng chân thực hơn.