Ngắm 12 bảo vật quốc gia tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng
VHO - Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng là địa chỉ thu hút lượng lớn khách du lịch đến tham quan, đặc biệt khách quốc tế. Hiện bảo tàng là nơi lưu giữ nhiều tác phẩm điêu khắc Chăm có giá trị, với hơn 2.000 hiện vật lớn nhỏ, gần 500 hiện vật đang được trưng bày; đặc biệt lưu giữ 12 bảo vật quốc gia.
12 bảo vật quốc gia lưu giữ tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng gồm: Đài thờ Trà Kiệu; Đài thờ Mỹ Sơn E1; Tượng bồ tát Tara; Đài thờ Đồng Dương; Tượng thần Ganesha; Tượng Gajasimha; Phù điêu Apsara; Tượng thần Shiva, Phù điêu Đản sinh Brahma; Phù điêu Shiva múa Phong Lệ; Phù điêu Uma Chánh Lộ; Tượng Rồng Tháp Mẫm.

1. Đản sinh Brahma, chất liệu sa thạch, xuất xứ Mỹ Sơn (Quảng Nam), niên đại thế kỷ VII – VIII. Đây là bức chạm khắc trang trí trên vòm cửa của tháp Mỹ Sơn E1, được đưa về bảo tàng năm 1935. Nội dung bức chạm là một chủ đề quen thuộc trong thần thoại Ấn Độ, truyền thuyết về sự hình thành vũ trụ của người Ấn Độ cổ xưa.
Bức chạm minh họa thần Visnu nằm trên biển vũ trụ mênh mông đen tối, được nâng đỡ bởi rắn thần Shesha 7 đầu, tay phải thần đỡ dưới đầu, tay trái giữ chặt cuống sen mọc ra từ rốn, trên đài sen thần Brahma ra đời trong tư thế thiền định và sau đó thần Brahma sáng tạo ra thế giới. Phía chân thần Visnu là hình ảnh một vị đạo sĩ đang chúc phúc cho cuộc đản sinh.
Trong nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ, ở vị trí này thường là hình ảnh của nữ thần Laksmi – vợ của Visnu. Hai đầu bức phù điêu là hai chim thần Garuda mình người chân chim, hình tượng Garuda này rất phổ biến trong nghệ thuật Môn – Dvaravati ở Thái Lan. Hiện phòng Quảng Ngãi cũng đang trưng bày một tác phẩm cùng chủ đề.

2. Phù điêu Apsara, chất liệu sa thạch, xuất xứ từ Trà Kiệu (Quảng Nam), niên đại thế kỷ X. Apsara là nàng tiên trong thần thoại Ấn Độ. Họ là những cô gái xinh đẹp, thanh tao, hát hay, múa dẻo, là vợ của nhạc công Gandharva và là tỳ nữ hầu hạ cho thần bão tố Indra.
Apsarsa được sinh ra từ cuộc khuấy biển sữa của các thần và quỷ Asura để tìm ra loại nước trường sinh bất tử. Một góc đài thờ hiện đang trưng bày được điêu khắc nổi hai vũ nữ Apsara cùng hai nhạc công Gandharva đang chơi đàn.
Các Apsara được thể hiện trong tư thế đang múa một vũ điệu mà hiện nay vẫn đang phổ biến trong nghệ thuật múa của Ấn Độ. Trang phục của các vũ nữ Apsara cũng rất đặc biệt, thoạt nhìn như chỉ đeo đồ trang sức nhưng kỳ thực người vũ nữ mặc một loại váy mỏng bó sát người, được nhận biết bằng chiếc nơ lớn thắt sau lưng. Chiếc váy được đính rất nhiều chuỗi hạt ngọc, đây là một trong những đặc trưng của phong cách Trà Kiệu.
Bên ngoài chiếc váy là chiếc sampot được kết bằng những hạt ngọc tròn nhỏ quấn quanh thân dưới và một lớp khác quấn lơi giữa hai vế, cổ, tai và tay đeo rất nhiều đồ trang sức. Thân hình Apsara uốn cong mềm mại, khuôn mặt toát ra vẻ đẹp dịu dàng thuần khiết, đôi môi như chứa đựng nụ cười kín đáo. Bên cạnh vũ nữ là một nhạc công Gandharva đang chơi một loại nhạc cụ có hình dạng giống như đàn Vina.

3. Tượng Gajasimha, chất liệu sa thạch, xuất xứ Tháp Mẫm (Bình Định), niên đại thế kỷ XII. Tượng được tìm thấy trong cuộc khai quật tại Tháp Mẫm (Bình Định) năm 1933-1934 do EFEO thực hiện. Sau đó, tượng được đưa về Bảo tàng từ năm 1935. Gajasimha (hay Voi – Sư tử) là một hình tượng linh thú trong thần thoại Ấn Độ với đầu voi và thân sư tử.
Hình tượng đầu voi biểu trưng cho quyền năng của thần linh và thân hình sư tử là biểu trưng chiến thắng, uy quyền của một vị vua.
Tượng mang những nét đặc trưng về phong cách nghệ thuật của một trong những giai đoạn muộn nhất – đã được các nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật có uy tín xếp vào một phong cách riêng là phong cách Tháp Mẫm, khoảng thế kỷ XII – XIII, trong tiến trình phát triển của nền nghệ thuật điêu khắc Champa.

4. Đài thờ Trà Kiệu, chất liệu sa thạch, xuất xứ Trà Kiệu (Quảng Nam), niên đại thế kỷ VII – VIII. Đối với người Chăm, đài thờ là nơi nối liền thần linh và đền tháp, nối trời và đất.
Đài thờ được đặt ở trung tâm ngôi tháp chính, bên trên đài thờ thường đặt Linga - Yoni hoặc tượng thờ liên quan đến vị thần được dâng cúng ngôi tháp.
Mỗi đài thờ thể hiện một phong cách, ý nghĩa khác nhau. Đài thờ Trà Kiệu được đưa về bảo tàng năm 1901.
Đài thờ Trà Kiệu được đánh giá là một trong những kiệt tác điêu khắc. Ngay sau khi được phát hiện, đài thờ Trà Kiệu đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu tìm đến giải mã nội dung câu chuyện của các nhân vật quanh đài thờ và đoán định niên đại của nó.

5. Tượng thần Ganesha, chất liệu sa thạch, niên đại thế kỷ VII, xuất xứ Mỹ Sơn (Quảng Nam).
Tượng được phát hiện vào năm 1903 bởi Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp khi tiến hành khảo cổ tại đền-tháp E5 thuộc nhóm E tại di tích Mỹ Sơn, Quảng Nam. Sau đó, tượng được đưa về lưu giữ và giới thiệu tại Bảo tàng từ năm 1918.
Theo thần thoại Ấn Độ, Ganesha là vị thần may mắn, tri thức và văn học, là con trai của thần Shiva và nữ thần Parvati.
Ganesha là một trong những vị thần cổ xưa nhất của các ngôi đền Hindu và cũng là một trong số những vị thần được yêu mến nhất với khả năng dẹp bỏ những khó khăn, trở ngại trong cuộc sống.

6. Đài thờ Mỹ Sơn E1, chất liệu sa thạch, xuất xứ Mỹ Sơn (Quảng Nam), niên đại thế kỷ VII - VIII. Đài thờ gồm 16 khối đá (hiện nay chỉ còn 14 khối, 2 khối đã bị mất từ sau khi khai quật). Bên trên đài thờ có thể từng có một cặp Linga – Yoni bằng sa thạch nhưng nay không còn.
Đây là đài thờ duy nhất được tìm thấy hiện nay mô phỏng các chi tiết trang trí kiến trúc của một ngôi tháp như: các bậc cấp, vòm cửa, trụ cửa, động vật, hoa lá. Đặc biệt hình ảnh các tu sĩ Ấn giáo đang tu luyện trong rừng, sống hòa mình cùng thiên nhiên và muôn thú. Phía trước bậc tam cấp được trang trí hình ảnh sáu vũ công đang trình diễn điệu múa dâng khăn lên thần linh.
Theo thần thoại Ấn Độ, núi Meru là nơi ở của các vị thần linh và Siva là vị thần chủ ngự trị trên đỉnh núi. Đài thờ Mỹ Sơn E1 chính là hình ảnh của ngọn núi Meru và Linga-Yoni được thờ cúng bên trên đài thờ là biểu tượng của thần Siva.
Đường viền quanh đài thờ Mỹ Sơn trang trí hình thoi xen lẫn giữa những đóa hoa bốn cánh. Kiểu trang trí này cũng xuất hiện trên một số tác phẩm điêu khắc của nghệ thuật Môn – Dvaravati ở Thái Lan vào thế kỷ VII – VIII.

7. Phù điêu Shiva múa Phong Lệ, chất liệu đá sa thạch, do một công chức người Pháp – Camille Paris phát hiện tại Phong Lệ khoảng năm 1890 cùng với một số hiện vật khác và đưa về công viên Tourane – hiện là nơi tọa lạc của Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng.
Đây là tác phẩm tiêu biểu, đẹp và đặc sắc về nội dung lẫn hình thức thể hiện về chủ đề Shiva múa trong số các tác phẩm được biết đến trong điêu khắc Champa.
Phù điêu Shiva múa Phong Lệ do một công chức người Pháp - Camille Paris phát hiện tại Phong Lệ khoảng năm 1890 cùng với một số hiện vật khác và đưa về công viên Tourane – hiện là nơi toạ lạc của Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng.
Tác phẩm thể hiện thần Shiva trong tư thế múa hay còn gọi là Nataraja (vua khiêu vũ). Đây là hình thức biểu trưng cho quyền năng tuyệt đối và là biểu hiện hoàn hảo nhất về thần Shiva. Nataraja có nguồn gốc từ tiếng Phạn: “Nata” là khiêu vũ và “Raja” là vua.
Bảo vật được phát lộ tại khu di tích Chăm Phong Lệ (nay thuộc phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng). Qua các các đợt khảo cổ từ 2011-2018 cũng cho thấy đây là một khu di tích Chăm có quy mô lớn, với nhiều chứng tích về sự quy tụ và phát triển của văn hoá Champa tại địa phương.
Hiện di tích này đã được UBND TP Đà Nẵng xếp hạng là di tích khảo cổ duy nhất đến nay trên địa bàn TP Đà Nẵng và có đề án bảo tồn, phát huy giá trị di tích trong thời gian đến.

8. Tượng thần Shiva, chất liệu sa thạch, xuất xứ tháp Mỹ Sơn C1 (Quảng Nam), niên đại thế kỷ VIII. Tượng được tìm thấy trong tháp Mỹ Sơn C1 năm 1903 trong tình trạng không nguyên vẹn. Đầu và đôi cẳng chân từ đầu gối trở xuống bị gãy nay được gắn lại bằng xi măng. Đây là tác phẩm có nhiều luồng ý kiến khác nhau.
Theo Henri Parmentier đây là hình ảnh khất thực của thần Siva do ông căn cứ vào hình dáng, trang phục và đặc biệt là hai cánh tay đưa ra phía trước của bức tượng (nay đã bị gãy mất).
Tuy nhiên, người Chăm có tục thờ Thần – Vua, có khả năng đây là chân dung Thần – Vua xuất hiện cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX, là loại tác phẩm rất hiếm trong nghệ thuật điêu khắc Chăm.
Khi nào tế lễ người ta mới đeo đồ trang sức vào cho tượng thần, đồ trang sức thường là khuyên tai, vòng cổ và vòng tay (tác phẩm là hiện vật duy nhất hiện nay tìm thấy mà tai tượng được đục lỗ).
Vào đầu thế kỷ XX, các nhà khảo cổ Pháp đã tìm thấy bộ đồ trang sức của tượng thần ở trong tháp Mỹ Sơn C7, gần bên tháp C1 – nơi đặt bức tượng.
Bộ trang sức bằng kim loại màu vàng này cân nặng 1,5 kg. Có khả năng đây chính là bộ trang sức được sử dụng để trang điểm cho tượng thần khi tế lễ.
Hiện nay ở khu di tích Mỹ Sơn cũng trưng bày một tác phẩm điêu khắc cùng thể loại.

9. Phù điêu Uma Chánh Lộ, chất liệu đá sa thạch, được tìm thấy ở di tích Chánh Lộ, Quảng Ngãi vào năm 1904 và sau đó được đưa về Bảo tàng Điêu khắc Chăm Đà Nẵng vào năm 1938.
Phù điêu là một tác phẩm đẹp, còn nguyên vẹn, thể hiện chủ đề nữ thần Uma trong tư thế múa và là hiện vật có kích thước lớn nhất đã được phát hiện tại Quảng Ngãi nói riêng và các di tích Champa nói chung đặc tả hình tượng nữ thần này.
Theo thần thoại Ấn Độ, nữ thần Uma là vợ của thần Shiva (Shiva, Brahma, Vishnu là ba vị thần tối cao trong Ấn Độ giáo) được biết đến với quyền năng bảo vệ và loại trừ tất cả thế lực ma quỷ có nguy cơ đe dọa thế gian. Nữ thần Uma có nhiều hóa thân, với các tên gọi khác nhau như: Parvati, Devi, Sati, Kali, Durga….
Tác phẩm thể hiện nét đặc trưng tiêu biểu trong một phong cách nghệ thuật điêu khắc Champa – Phong cách Chánh Lộ (khoảng thế kỷ XI – XII) với sự phá cách mạnh mẽ về khuôn khổ, đường nét, dáng điệu; cùng các họa tiết hoa văn trên y phục, đồ trang sức, mũ đội giàu tính sáng tạo đã góp phần làm cho các tác phẩm trở nên sống động, có tính biểu cảm riêng biệt.

10. Tượng bồ tát Tara, chất liệu đồng, xuất xứ Đồng Dương (Quảng Nam), niên đại cuối thế kỷ IX – đầu thế kỷ X. Năm 1978 người dân tại địa phương đã tình cờ tìm thấy một pho tượng nữ thần bằng đồng cao gần 1,15m.
Tượng nữ thần đứng thẳng, hai tay cùng đưa cân xứng về phía trước. Tay phải cầm đóa hoa sen, tay trái cầm vỏ ốc. Hai chi tiết này đã bị thất lạc khi tượng được phát hiện. Đến tháng 12.2023, sau thời gian lưu lạc, hai hiện vật đã được bàn giao lại cho Bảo tàng lưu giữ và bảo quản.
Toàn bộ phần cơ thể phía trên được phô trần với bộ ngực căng đầy. Y phục phía dưới gồm một tấm váy dài gần đến cổ chân và tấm vải chồng bên ngoài. Khuôn mặt vuông vức, nghiêm nghị, đôi lông mày to, cong, giao nhau, mũi to, môi dày... gợi đến phong cách Đồng Dương.
Tóc của nữ thần được vấn lên thành búi cao có mang hình Phật A Di Đà. Dựa trên những đặc trưng phong cách và các dấu hiệu biểu tượng của hoa sen cầm tay, hình Phật A Di Đà trên tóc, nhiều nhà nghiên cứu đã sớm liên tưởng bức tượng này đến vị thần chủ Laksmindra Lokesvara được đề cập đến trong văn bia tìm thấy tại Đồng Dương.
Tên gọi Tara là tên gọi mà nhà nghiên cứu Jean Boisselier đã gợi ý sau 5 năm tìm ra tác phẩm và cách gọi tên này vẫn còn gây nên ít nhiều sự băn khoăn, trao đổi giữa các nhà nghiên cứu. Tác phẩm này là một trong những tượng Tara bằng đồng quan trọng nhất đã được phát hiện tại khu vực Đông Nam Á.

11. Tượng Rồng Tháp Mẫm, chất liệu đá sa thạch, được phát hiện trong đợt khai quật năm 1934 và 1935 tại gò đồi Tháp Mẫm (Bình Định), do J.Y Clayes – nhà khảo cổ học thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp thực hiện.
Bên cạnh Tượng Rồng Tháp Mẫm, nhóm nghiên cứu đã phát hiện được rất nhiều hiện vật có chủ đề linh thú như rồng, voi - sư tử (Gajasimha), chim thần – rắn thần (Garuda – Naga)… Tác phẩm này được phát lộ tại di tích năm 1934 và đưa về Bảo tàng Điêu khắc Chăm vào năm 1935.
Rồng là biểu tượng cho vương quyền của nhiều quốc gia ở phương Đông. Rồng trong điêu khắc Champa thường được thể hiện kết hợp của nhiều con vật khác nhau. Phần đầu trông giống thuỷ quái Makara, mình và chân giống sư tử và đuôi trông như đuôi cá sấu hay rắn (Naga).
Tượng Rồng Tháp Mẫm hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm được biết đến là hiện vật có kích thước lớn nhất; chạm khắc cầu kỳ, chi tiết; và còn nguyên vẹn nhất trong số tác phẩm chủ đề về rồng trong điêu khắc Champa.
Tượng Rồng Tháp Mẫm thể hiện một giai đoạn phong cách nghệ thuật khác biệt trong tiến trình phát triển của điêu khắc tôn giáo Champa – Phong cách Tháp Mẫm hay phong cách Bình Định, từ thế kỷ XII – XV.
Nét đặc trưng của phong cách Tháp Mẫm thể hiện rõ nét ở những tượng tròn linh thú với kích thước lớn, được phóng đại, cách điệu hay kết hợp với các hình tượng linh vật khác, tạo ấn tượng thần thoại nhiều hơn là hiện thực. Nghệ thuật điêu khắc giai đoạn này mang ảnh hưởng của nghệ thuật điêu khắc đá Khmer - phong cách Bayon (Campuchia) hay nghệ thuật Đại Việt thời Lý.

12. Đài thờ Đồng Dương, chất liệu sa thạch, xuất xứ Đồng Dương (Quảng Nam), niên đại cuối thế kỷ IX – đầu thế kỷ X.
Đây là đài thờ được tìm thấy tại khu tháp chính phía tây nơi được cho là thờ bồ tát Laksmindra Lokesvara – vị thần chủ của Phật viện.
Đài thờ Đồng Dương là một bằng chứng vật chất độc đáo minh chứng cho một giai đoạn phát triển rực rỡ của vương quốc Champa vào thế kỷ thứ IX – X.
Đây là giai đoạn Phật giáo thịnh hành và phát triển nhất trong lịch sử phát triển của vương quốc và đánh dấu một giai đoạn phát triển riêng biệt so với các thời kỳ khác.
