Triết lý giáo dục Việt Nam: Từ truyền thống đến hiện đại
VHO - Cuốn sách Triết lý giáo dục Việt Nam: Từ truyền thống đến hiện đại là kết quả của một đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước do GS.TSKH Trần Ngọc Thêm cùng nhóm 13 nhà nghiên cứu thực hiện. Nhận thấy ý nghĩa và giá trị lớn của công trình này, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã lựa chọn xuất bản để bổ sung vào kho sách tham khảo chất lượng cao.
Trong khoảng 20 năm gần đây, khái niệm "triết lý giáo dục" đã thu hút sự quan tâm tại Việt Nam, hình thành ba luồng quan điểm chính. Tuy nhiên, các quan điểm này vẫn thiếu tính hệ thống, thiên về cảm tính và chưa có cơ sở khoa học rõ ràng, dẫn đến sự thiếu đồng thuận và sức thuyết phục.
Để giải quyết vấn đề một cách toàn diện, nhóm nghiên cứu đã dành nhiều công sức để xây dựng chiến lược nghiên cứu năm bước, tiếp cận triết lý giáo dục trên ba chiều: ngang, dọc và sâu.
Cuốn sách bao gồm các chương: Cơ sở lí luận về triết lí giáo dục; Triết lí giáo dục ở phương Tây và Đông Bắc Á; Triết lí giáo dục Việt Nam truyền thống; Sự biến động của triết lí giáo dục Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập; Mô hình triết lí giáo dục Việt Nam định hướng cho những thập niên tới.
Nghiên cứu dựa trên hai góc nhìn: bên ngoài và bên trong. Ở góc nhìn bên ngoài, nghiên cứu làm rõ sự khác biệt giữa triết lý giáo dục và triết học giáo dục, giữa triết lý giáo dục và minh triết giáo dục, đồng thời phân tích ba yếu tố chi phối triết lý giáo dục: chính trị, kinh tế và văn hóa. Ngược lại, triết lý giáo dục cũng tác động trở lại các yếu tố này.
Từ góc nhìn bên trong, triết lý giáo dục được xem như một hệ tư tưởng bao trùm với sáu thành tố: sứ mệnh, mục tiêu, nguyên lý, giá trị cốt lõi, nội dung và phương pháp. Sáu thành tố này tạo thành hệ thống ba tầng: cấu trúc tối thiểu, cấu trúc cơ bản và cấu trúc mở rộng.
Từ đó, nhóm tác giả đề xuất mô hình vận động triết lý giáo dục theo loại hình văn hóa, với ba dạng: thiên về âm tính, trung gian và thiên về dương tính. Dựa trên nhiều phương pháp nghiên cứu, nhóm ưu tiên sử dụng phương pháp luận Mác-xít, thực chứng và tiếp cận toàn thể, kết hợp với hệ phương pháp dịch lý – hệ thống – loại hình.
Để đối chiếu với văn hóa Việt Nam, nhóm nghiên cứu phân tích triết lý giáo dục phương Tây và Đông Bắc Á. Văn hóa phương Tây, với nền tảng từ nghề săn bắt và chăn nuôi du mục, mang tính động và thiên về dương tính. Điều này thể hiện qua sự tôn trọng sức mạnh, đề cao cá nhân và lí trí, từ đó phát triển khoa học và nền văn minh. Giáo dục phương Tây khởi đầu với mô hình sứ mệnh II (xây dựng xã hội phát triển và phục vụ nhu cầu xã hội) vào thời Hy Lạp – La Mã, sau đó chuyển sang mô hình III (xây dựng xã hội phát triển và chăm sóc nhu cầu cá nhân) từ thời Phục Hưng.
Trong khi đó, văn hóa Đông Bắc Á (như Nhật Bản, Hàn Quốc) thuộc loại hình văn hóa trung gian, kết hợp cả âm tính và dương tính. Giáo dục trong khu vực này theo mô hình II, tập trung xây dựng xã hội phát triển ổn định. Trong thời phong kiến, các nước chịu ảnh hưởng Nho giáo thường đào tạo "người quân tử" (người thừa hành). Sau thời kỳ phong kiến, mục tiêu chuyển dần sang đào tạo người tư duy và sáng tạo, dù người học vẫn chịu áp lực cao.
Trên nền tảng của cơ sở lí thuyết và những bài học xây dựng và triển khai ở các nước, nhóm tác giả đã đi sâu tìm hiểu về phân chia giáo dục Việt Nam từ thời Văn Lang – Âu Lạc đến nay làm sáu thời kì với hai giai đoạn: truyền thống và hiện tại.
Trong giai đoạn truyền thống (thời kì phong kiến, Pháp thuộc và thời 1945-1985), với nền kinh tế lúa nước và văn hóa ưa ổn định thì triết lí giáo dục Việt Nam có mục tiêu chủ yếu là đào tạo người thừa hành (làm quan, nhân viên bản xứ, công chức). So sánh với mục tiêu thực tế là thuộc bài, thi đỗ, có bằng cấp, ngoan ngoãn, vâng lời thì nhìn tổng thể, triết lí giáo dục Việt Nam thời kì này là thành công.
Thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế từ năm 1986 đến nay, nền kinh tế chuyển từ chế độ chỉ huy – bao cấp sang kinh tế thị trường, hệ giá trị văn hóa truyền thống đang trong quá trình xã hội chủ nghĩa hóa chuyển sang hệ giá trị trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Sự chuyển đổi này đã tạo sự đan xen, đối chọi nhau giữa các giá trị văn hóa cũ và mới. Triết lí giáo dục Việt Nam cũng chịu tác động của các yếu tố này dẫn tới sứ mệnh và mục tiêu giáo dục trong thực tế chưa được như kì vọng. Các tác giả cũng đã đi sâu phân tích, đánh giá tổng thể thực trạng và chỉ ra được nguyên nhân sâu xa của những bất cập lâu nay trong ngành giáo dục.
Từ các phân tích khoa học, nhóm nghiên cứu đưa ra mô hình triết lý giáo dục Việt Nam định hướng cho những thập niên tới. Mô hình này tập trung chuyển từ mô hình sứ mệnh II sang mô hình sứ mệnh III, kế thừa tối đa các giá trị tích cực của triết lý giáo dục truyền thống và hiện đại, đồng thời đề xuất điều chỉnh những điểm chưa phù hợp.
Mô hình nhấn mạnh phương pháp lấy người học làm trung tâm, đặt trong mối quan hệ “Nhà trường – Gia đình – Xã hội.” Các đề xuất cụ thể cũng được đưa ra cho từng cấp học và hệ thống giáo dục.
Triết lý giáo dục Việt Nam: Từ truyền thống đến hiện đại cung cấp một cơ sở khoa học toàn diện để các cơ sở giáo dục vận dụng xây dựng triết lý giáo dục phù hợp với điều kiện thực tiễn. Đồng thời, công trình mở ra những hướng đi mới trong nghiên cứu triết lý giáo dục, góp phần xây dựng nền triết học giáo dục Việt Nam và đóng góp cho triết học giáo dục thế giới.