Dạy học bằng tiếng nước ngoài chính thức có hành lang pháp lý
VHO - Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 222/2025/NĐ-CP quy định về việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong các cơ sở giáo dục. Đây là hành lang pháp lý quan trọng, điều chỉnh toàn diện hoạt động giảng dạy bằng ngoại ngữ .
Ưu tiên toán học, công nghệ, khoa học trong giảng dạy bằng tiếng nước ngoài
Theo quy định mới, các cơ sở giáo dục phổ thông được phép dạy và học một số môn học hoặc một số nội dung thuộc các môn học bằng tiếng nước ngoài. Ưu tiên hàng đầu là các môn trong lĩnh vực toán học, khoa học tự nhiên, công nghệ và tin học – những môn học được xem là nền tảng cho phát triển tư duy logic và hội nhập tri thức quốc tế.
Hình thức này được áp dụng trên cơ sở vẫn tuân thủ chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam, giúp học sinh tiếp cận kiến thức theo chuẩn trong nước nhưng đồng thời làm quen với thuật ngữ chuyên ngành bằng tiếng nước ngoài.

Đối với chương trình giáo dục thường xuyên, dạy học bằng tiếng nước ngoài được áp dụng linh hoạt một phần, tùy theo khả năng và nhu cầu. Giáo trình, tài liệu giảng dạy do Giám đốc cơ sở lựa chọn, có thể đến từ nguồn do Bộ GD&ĐT phê duyệt, hoặc từ các trường đại học, cơ sở nghề, tổ chức giáo dục trong và ngoài nước, miễn phù hợp với mục tiêu đào tạo và năng lực tiếp nhận của học viên.
Tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, chương trình giảng dạy các ngành, nghề đã được cấp phép hoặc tự chủ mở ngành có thể được tổ chức bằng tiếng nước ngoài toàn phần hoặc từng phần. Tài liệu giảng dạy phải được Hiệu trưởng hoặc Giám đốc cơ sở phê duyệt trên cơ sở thẩm định của Hội đồng chuyên môn.
Việc dạy học bằng tiếng nước ngoài trong các trường nghề không chỉ hỗ trợ kỹ năng chuyên môn mà còn nâng cao cơ hội việc làm cho người học trong bối cảnh hội nhập thị trường lao động quốc tế.
Ở cấp giáo dục đại học, các chương trình, mô-đun, học phần được giảng dạy bằng tiếng nước ngoài sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Giáo trình và tài liệu giảng dạy phải được thẩm định kỹ lưỡng theo đúng quy trình và trách nhiệm thuộc về Hiệu trưởng, Giám đốc các trường đại học.
Đáng chú ý, Nghị định 222/2025 khuyến khích mạnh mẽ việc ứng dụng công nghệ trong dạy học bằng tiếng nước ngoài. Các trường được phép sử dụng trí tuệ nhân tạo, hệ thống học trực tuyến, giáo trình điện tử và các công cụ số để tổ chức, quản lý và đánh giá kết quả học tập. Điều này mở ra hướng đi mới trong việc kết hợp giữa chuyển đổi số và quốc tế hóa giáo dục – một chiến lược không thể thiếu trong giai đoạn phát triển hiện nay.
Chuẩn hóa năng lực ngoại ngữ giáo viên, công khai học phí, tăng trách nhiệm giải trình
Nghị định lần này đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu về năng lực ngoại ngữ giáo viên. Để giảng dạy bằng tiếng nước ngoài, giáo viên ở các cấp học phải đáp ứng trình độ ngoại ngữ tối thiểu.
Cụ thể, giáo viên tiểu học và trung học cơ sở cần đạt tối thiểu bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam hoặc trình độ tương đương. Giáo viên trung học phổ thông phải đạt bậc 5. Trong khi đó, người dạy tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học cũng cần tối thiểu bậc 5 và đồng thời có năng lực sử dụng ngoại ngữ để truyền đạt chuyên môn phù hợp với chương trình.
Nghị định cũng mở ra cơ chế miễn chứng minh năng lực ngoại ngữ cho một số trường hợp. Những người từng tốt nghiệp đại học, thạc sĩ hoặc tiến sĩ toàn thời gian ở nước ngoài, với ngoại ngữ là ngôn ngữ giảng dạy và văn bằng đã được công nhận, sẽ không cần bổ sung thêm chứng chỉ ngoại ngữ. Tương tự, các cử nhân tốt nghiệp ngành sư phạm ngoại ngữ hoặc ngoại ngữ tại Việt Nam cũng được miễn yêu cầu chứng minh này.
Cùng với đó, Nghị định quy định chi tiết về học phí đối với chương trình dạy học bằng tiếng nước ngoài. Với các trường công lập (bao gồm phổ thông và giáo dục thường xuyên), học phí được xác định trên nguyên tắc tính đúng – tính đủ, lấy thu bù chi và phải có sự đồng thuận từ phía người học. Việc xây dựng và phê duyệt mức thu sẽ do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định. Các trường bắt buộc phải công khai mức thu và có trách nhiệm giải trình minh bạch.
Đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học công lập, học phí được xác định trên cơ sở mức độ tự chủ tài chính, khả năng chi trả của người học, và định mức kinh tế – kỹ thuật theo quy định hiện hành. Tất cả các mức học phí đều phải công bố công khai trước tuyển sinh và được kiểm tra, thanh tra bởi các cơ quan quản lý giáo dục và tài chính.
Với các trường tư thục, học phí được xây dựng linh hoạt nhưng phải minh bạch. Mỗi cơ sở phải công khai mức học phí theo năm học, khóa học, mô-đun cụ thể, đồng thời giải trình lộ trình tăng học phí hằng năm. Cơ sở tư cũng phải giải thích rõ các khoản thu, chi, chi phí trung bình đầu học sinh, và đảm bảo công khai, minh bạch theo luật định.
Đặc biệt, học phí thu từ chương trình dạy học bằng tiếng nước ngoài không chỉ dùng để tổ chức lớp học mà còn chi trả thù lao cho đội ngũ giáo viên đủ chuẩn. Các khoản thu này phải được sử dụng đúng mục đích, kê khai, kế toán, kiểm toán đầy đủ và sẵn sàng tiếp nhận kiểm tra của cơ quan chức năng.