Về Căn cứ 696, Vùng 2 Hải Quân: Lính biển xây thành Tuy Hạ

VH- 20 năm ra đời xây dựng và trưởng thành, cán bộ chiến sĩ (CBCS) Căn cứ 696 Vùng 2 Hải quân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quân sự quốc phòng; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu cho các đơn vị Quân chủng Hải quân khu vực phía Nam; góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, nhà giàn, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc trong mọi tình huống. Đó là niềm tự hào vô bờ bến của những người lính biển giữ rừng Căn cứ thành Tuy Hạ 20 năm qua (27.8.1996-27.8.2016).

Hàng chục kho, xưởng, hệ thống nhà ở, cầu cảng, đường nhựa đang hiện diện khang trang, chính quy trên “đồi” Căn cứ 696 hiện nay; 20 năm trước, mảnh đất này là rừng tạp, đất đai khô cằn, thời tiết khắc nghiệt. Những người lính biển Căn cứ 696 đã phải lăn lộn, ngày phát rừng, tối đào công sự, đêm nằm chòi lá, chạy đua với khí hậu khắc nghiệt để đặt những viên gạch đầu tiên xây nên những công trình quân sự đặc biệt giữa rừng sâu.
“Khó có thể nói hết được những gian khổ ngày đầu tiên xây dựng Căn cứ 696, nhưng thế hệ cán bộ chiến sĩ chúng tôi luôn tự hào vì đã hoàn thành tốt nhiệm vụ cấp trên giao phó. Giữa rừng sâu, biệt lập với địa phương xung quanh bên ngoài, đời sống vô cùng khó khăn, nếu không có quyết tâm, đồng lòng xây dựng thì không thể có cơ ngơi khang trang như bây giờ”. Mở đầu câu chuyện, đại tá Vũ Hồng Đô, nguyên Chỉ huy trưởng Căn cứ 696 nói với chúng tôi trong niềm tự hào ấy tại nhà riêng của ông tại Vũng Tàu.
Trước năm 1975, thành Tuy Hạ nguyên là Tổng kho bom đạn của ngụy quyền Sài Gòn có vành đai rộng khoảng 23 ha. Phía ngoài cùng là giao thông hào. Trong lòng đất giữa rừng tạp cỏ lau, Mỹ - ngụy đã gài hàng ngàn quả mìn lá kích nổ; thả rắn lục xanh, cá sấu, rết độc nhằm chống biệt kích người nhái xâm nhập vào kho đạn; phía trong là tường thành vững chắc. Trước địa hình phức tạp đó, ông Đô cùng 12 cán bộ chiến sĩ quyết tâm: “Phải biến kho bom đạn Mỹ thành trung tâm kỹ thuật bằng sức lực người lính”. Nhớ lại ngày gian khó ấy, đại tá Đô chia sẻ: “Thượng tướng Đào Đình Luyện và Phó đô đốc Hải quân Mai Xuân Vĩnh lúc đó đã về khảo sát. Các ông hỏi tôi: “Anh học chỉ huy tàu mặt nước đến đây là “trái nghề” rồi? Tôi trả lời: “Là người lính thì chiến trường nào cũng sẵn sàng xung trận”, ông Đô hồi tưởng lại.

Về Căn cứ 696, Vùng 2 Hải Quân: Lính biển xây thành Tuy Hạ - Anh 1

Cán bộ, chiến sĩ Căn cứ 696 cùng nhân dân Tà Lài múa hát trong một lần dân vận tại huyện Tà Lài


Ngay sau khi khảo sát địa bàn, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo Công ty Lũng Lô tiến hành rà phá bom mìn quanh thành Tuy Hạ. Chỉ định thầu Công ty Hải Công Hải quân xây kho tàng, cầu cảng, xưởng trạm. Cùng với công nhân Công ty Lũng Lô và Hải Công, 13 cán bộ chiến sĩ lăn lộn với công việc. Số chiến sĩ trẻ phải canh gác liên tục suốt ngày đêm ở hai cổng Đông và Tây bảo đảm an toàn cho công trình thi công.
Sau ba tháng chạy đua với thời gian, Trạm nâng cấp đạn mang biệt danh T-93 ra đời có công suất 53VA. Đây là trạm dây chuyền công nghệ nâng cấp đạn ngư lôi tàu biển đầu tiên của Hải quân khu vực Nam Bộ. Để bảo đảm nhiệm vụ huấn luyện diễn tập; hàng trăm cán bộ, chiến sĩ chuyên môn kỹ thuật ngày đêm miệt mài bên dây chuyền trong xưởng máy nâng cấp, sản xuất mới đạn dược cho Vùng 4 Hải quân và tàu 13 Lữ đoàn 171 diễn tập tổng hợp bảo vệ chủ quyền biển đảo phía Nam của Tổ quốc.
Thực hiện “ba tại chỗ”, ông Đô đã huy động công sức bộ đội khoan giếng lấy nước ngọt từ lòng đồi cao. Lượng nước ngọt lúc đó đủ phục vụ xây dựng xưởng trạm, cầu cảng, kho tàng. Giữa cái nắng cháy da cháy thịt, hàng trăm cán bộ, chiến sĩ khiêng đá, chuyển cát làm đường, đào hầm hào công sự. Đêm về, cả trăm cán bộ, chiến sĩ chỉ có ba cái bóng đèn điện, ngồi trong nhà bạt, nhà chòi sinh hoạt, phổ biến nhiệm vụ. Ngày đó, ở thành Tuy Hạ chỉ K-862 có điện từ máy phát điện. Người dân quanh vùng còn dùng đèn dầu mazut. Xin điện chiếu sáng từ K-862, nhưng cũng chỉ đến 9 giờ tối là hết. Nhiều chiến sĩ đọc, viết thư dưới ánh đèn dầu. Từ 21 giờ đêm trở đi, cả thành Tuy Hạ chìm trong màn đêm. Trong màn đêm dày đặc mìn lá và thuốc súng ấy, những chiến sĩ trẻ ôm súng canh gác cho đơn vị an toàn. Để đem ánh sáng về rừng, đại tá Đô đã lặn lội lên Sài Gòn rồi Sở Điện lực Đồng Nai xin kéo điện. Sau gần một tháng thi công, trạm điện 65 KVA hoàn thành. Giữa rừng sâu Căn cứ, lần đầu tiên cán bộ chiến sĩ nhìn thấy bóng đèn ne-on thắp sáng. Nước mắt họ trào ra vì sung sướng. Trong khoảnh khắc ấy, trong tim mỗi người nhân lên niềm tự hào. Có sĩ quan đã rưng rưng nước mắt vì xúc động.
20 năm trước, thành Tuy Hạ được bao bọc bởi rừng lau sậy hoang vu, nhà dân thưa thớt, đường đất khô cằn, khí hậu khắc nghiệt. 20 năm sau, thành Tuy Hạ bây giờ là Căn cứ bảo đảm kỹ thuật khang trang chính quy hiện đại. Đó là quá trình đổi mới, mà chủ nhân của nó là cán bộ, chiến sĩ Căn cứ 696- những lính biển làm nhiệm vụ trên rừng.
Với nhiệm vụ là Trung tâm Bảo dưỡng, bảo quản, niêm phong, nâng cấp, cất giấu vũ khí, đạn dược tàu Hải quân; phục vụ huấn luyện chiến đấu và chiến đấu cho Quân chủng Hải quân phía Nam, cán bộ, chiến sĩ Căn cứ 696 luôn tự hào hãnh diện là “những người nuôi đạn dưỡng bom”, và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Trong xưởng kho nóng bức chật hẹp khiến mồ hôi ướt áo; bàn tay những người thợ thô ráp, dính dầu mỡ cả ngày; nhưng niềm tự hào của cán bộ, chiến sĩ không bao giờ vơi cạn. Bởi chính họ là những người tái tạo sức sống cho bom đạn, bảo đảm cho những con tàu bắn trúng mục tiêu trên biển trong thời bình và tiêu diệt kẻ thù trong chiến tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc trong mọi tình huống.
Đi trên con đường mới thênh thang dưới bóng cây mát rượi, ngắm hàng pa-nô khẩu hiệu dọc dãy nhà còn thơm mùi sơn mới, tất cả dấy lên niềm kiêu hãnh khoác trên mình màu áo Hải quân phiên hiệu Căn cứ 696 hôm nay.


Trần Mạnh Tuấn

Ý kiến bạn đọc