55 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (23.10.1961 -23.10.2016): Nhân chứng sống và vòng tay cuối cùng

VH- Cuộc chiến đấu sáng ngày 24.12.1972 giữa tàu 645 với tàu địch ở hải phận quốc tế trên vùng biển Tây Nam đã trở thành huyền thoại bất tử.

Ông Lê Hà, nguyên thuyền trưởng tàu 645, lục lại ký ức những ngày chiến đấu cùng liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu

Câu chuyện kể về người chính trị viên - anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu, lệnh cho 17 thủy thủ nhảy xuống biển bơi vào bờ bảo toàn tính mạng, còn mình ở lại giật bộc phá hủy tàu và hi sinh, vẫn vẹn nguyên như mới hôm qua trong ký ức ông Lê Hà - nguyên thuyền trưởng tàu 645, và ông cũng là nhân chứng còn sống duy nhất cho đến bây giờ trong trận chiến quyết tử ngày ấy. 

Ngày 23.4.1972, con tàu mang bí số 645 chở 70 tấn đạn cối cá nhân và 1 tấn thuốc nổ TNT cùng hàng hóa khác, hải trình từ Bắc tới vùng biển Phú Quốc. Do địch phòng bố kiểm soát liên tục nên tàu phải chuyển hướng đi về bến phía đảo Cô Công (Campuchia), cách Phú Quốc chừng 60 hải lý, chờ khi trời chập tối sẽ cho tàu cập bến. Trước đó lúc 14h, tàu nhận được điện của Sở Chỉ huy báo về “Đêm nay sẽ có thuyền đón ở mũi Cà Mau”, nhưng 17h lại điện “Bến động”, buộc tàu quay ra hải phận quốc tế vòng tránh và giả vờ làm ngư dân đánh cá. 19h ngày 23.4, khi các thủy thủ đang chờ mệnh lệnh từ Sở Chỉ huy và sẵn sàng cập bến, thì bỗng xuất hiện một tàu khu trục địch từ Vịnh Thái Lan lao tới. Tàu khu trục rọi đèn pha sáng rực, đánh tín hiệu hỏi “Tàu từ đâu đến và đi đâu?”. Tàu 645 trả lời: “Tàu từ Trung Quốc xuống, bị lạc”. Địch phát tín hiệu dừng tàu. Tàu 645 lập tức tăng tốc nhằm chạy ra hướng Biển Đông thoát khỏi tầm truy đuổi của địch. Ngay lập tức địch gọi máy bay bắn pháo sáng. Trong ánh pháo sáng chói lòa, tàu 645 đã nhìn rõ phía trước có 3 tàu địch. Tàu 645 vẫn giữ tốc độ tiến nhanh ra vùng biển quốc tế. Chiếc khu trục 04 của Mỹ bám rất sát tàu ta, chúng tăng tốc cực độ với ý đồ bắt sống tàu 645.

Khoảng 11h, một quả đạn lớn trúng vào xích lái, tàu ta không còn điều khiển được nữa phải chạy vòng tròn. Khi biết tàu hỏng lái không thể cơ động được nữa, Nguyễn Văn Hiệu đề nghị thuyền trưởng Lê Hà và ra lệnh cho anh em khoác áo phao nhảy xuống biển bơi vào bờ nhằm bảo toàn lực lượng, còn anh xin ở lại điểm hỏa bộc phá hủy tàu phi tang vũ khí hàng hóa. Chiến sĩ Hàng hải Thẩm Hồng Lăng cũng xung phong ở lại cùng chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu rời tàu cuối cùng. Khi các thủy thủ đã xuống nước, Hiệu và Lăng nán lại thu tập tài liệu để hủy. Khi 2 anh đã khoác áo phao định xuống cùng đồng đội, thì phát hiện một tình huống vô cùng nguy hiểm, tất cả 15 thủy thủ đều bị thương, mọi người đang cố gắng sức mình cụm lại một khối dìu nhau mà bơi. Trong giây phút hiểm nghèo ấy, Hiệu cố gắng lái tàu xa dần vị trí các thủy thủ. Lúc này trên tàu chỉ còn Hiệu và chiến sĩ Hàng hải Thẩm Hồng Lăng. Ánh mắt người chính trị viên vốn bình thường đầy nghiêm khắc, sao lúc này bỗng dịu dàng thân thương đến lạ kỳ. Anh nói với Lăng, nửa như ra lệnh, nửa như khẩn khoản: “Em còn trẻ, còn cống hiến được lâu, được nhiều hơn anh. Anh đã có vợ con, em thì chưa kịp có người yêu, thôi Lăng nhảy xuống biển bơi cùng anh em đi”. Ứa nước mắt thương đồng đội, nhưng Lăng vẫn quyết không rời tàu, bởi anh không muốn để anh Hiệu một mình hi sinh. Lăng vờ như không nghe thấy, cứ lúi húi ngồi đốt hủy tài liệu trên boong tàu. Nói nhỏ không được, Hiệu quát to: “Đồng chí về báo cáo với Đoàn là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và cho tôi gửi tới anh em lời chào chiến thắng”, rồi bất ngờ anh lao tới đẩy Lăng xuống biển. Chới với giây lát, từ dưới biển nhìn lên, Lăng vẫn thấy rõ anh Hiệu đang quay lưng lại, chậm rãi bước về phía cột cờ nơi cao nhất của con tàu, nơi để đấu dây điện nối với kíp điểm hỏa bộc phá. Khi Lăng đã nhập được vào gần tốp anh em bơi trên biển, khi vị trí con tàu ở xa đồng đội nhất, Nguyễn Văn Hiệu giật dây kíp, nổ tàu. Lúc đó là 11h30 ngày 24.4.1972.

15 thủy thủ sau khi nhảy xuống biển và bơi được một đoạn dài liền bị địch dùng trực thăng và tàu quây bắt. Chúng đem về Sài Gòn rồi nhốt tại khám Chí Hòa, người thì bị giam ngay tại nhà tù Phú Quốc. Năm 1973, sau Hiệp định Paris, 15 chiến sĩ được trao trả, 4 thủy thủ là San, Lân, Giang, Thẻ bị trúng đạn hi sinh vĩnh viễn nằm lại biển xanh khi tuổi đời còn trẻ, cho đến bây giờ, hài cốt của các anh vẫn chưa được tìm thấy.

Trần Mạnh Tuấn

Ý kiến bạn đọc