Phát hiện công xưởng chế tác mũi khoan đá độc đáo ở Thác Hai

VHO- Mới đây, ở Đắk Lắk, một di chỉ rất quan trọng mới được phát hiện, nghiên cứu, khai quật. Đó là di chỉ công xưởng chế tác mũi khoan đá Thác Hai thời Tiền sử. Theo công bố của các nhà khảo cổ học, đây là một di chỉ công xưởng chế tác mũi khoan đá duy nhất, có quy mô lớn với trình độ tinh xảo, mang trong mình những giá trị lịch sử văn hóa đặc sắc, tiêu biểu.

Phát hiện công xưởng chế tác mũi khoan đá độc đáo ở Thác Hai - Anh 1

 Một số loại hình mũi khoan, phác vật và vảy tước

Di chỉ khảo cổ học Thác Hai thuộc địa phận thôn 6, xã Ia J’lơi, huyện Ea Súp (Đắk Lắk), được Bảo tàng Đắk Lắk và Bảo tàng Lịch sử Quốc gia phối hợp khai quật hai lần từ năm 2021 đến năm 2022.

Đã thu được hơn 1.000 mũi khoan…

Địa hình di chỉ nằm trên một gò đất cao bên hữu ngạn sông Ea H’leo, với độ dốc thoải dần từ đông sang tây. Bao quanh ba mặt của gò là sông Ea H’leo và các nhánh phụ của nó. Phần phía đông di tích nơi có dòng chính của sông Ea H’leo chảy qua đã bị sạt lở nghiêm trọng. Hiện nay, diện tích còn có thể nghiên cứu của di tích Thác Hai là khoảng 7000m2, với sự phân bố khá dày đặc của di tích, di vật từ phần đỉnh gò phía đông cho tới chân gò phía tây.

Tầng văn hóa di chỉ dày trên 2m, bên trong chứa các di tích như mộ táng, hố đất đen cùng nhiều di vật như: Bàn mài, rìu, bôn, bàn đập vỏ cây bằng đá. Đặc biệt, đợt khai quật này, qua sàng đãi đã thu được hơn 1.000 mũi khoan và phác vật bằng các loại đá opal, jasper, silic, phtanite… cùng hàng vạn vảy tước. Qua tổng thể di tích và di vật, có thể thấy Thác Hai là một di tích phức hợp, vừa có tính chất cư trú, vừa là khu mộ táng, lại vừa là một công xưởng chế tác mũi khoan đá quy mô lớn. Tính chất định cư truyền thống, lâu dài, ổn định thể hiện rõ qua địa tầng dày khoảng 2m, kèm theo đó là đồ gốm và đồ đá cùng các dấu vết sinh hoạt khác như than tro, hố đất đen. Mộ táng xuất lộ trong mọi độ sâu của tầng văn hóa, loại hình táng thức khá thống nhất. Tính chất công xưởng lại càng nổi bật hơn nữa, sự xuất hiện của mũi khoan với số lượng lớn, đi kèm với nó là các hiện vật liên quan đến quy trình chế tác như đá nguyên liệu, hạch đá, mảnh tước, bàn mài, thành phẩm, phác vật, phế vật…

Thông qua đặc điểm di tích, di vật cùng với các kết quả phân tích niên đại C14, các nhà khảo cổ xác định, di tích Thác Hai nằm trong khung niên đại từ khoảng 4000 năm cho đến khoảng 2000 năm cách ngày nay, với hai giai đoạn phát triển sớm muộn khác nhau. Trước hết, cần phải khẳng định rằng, Thác Hai là một trong số ít những công xưởng chế tác mũi khoan hiếm hoi phát hiện ở Việt Nam. Cho đến nay, trong giai đoạn Hậu kỳ Đá mới - Sơ kỳ Kim khí ở nước ta, khảo cổ học đã phát hiện được hàng chục công xưởng chế tác đá, phân bố ở Bắc Bộ, Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, trong số các công xưởng chế tác đá đó, chỉ có một vài công xưởng phát hiện được mũi khoan, đó là Bãi Tự (Bắc Ninh), Tràng Kênh, Bãi Bến (Hải Phòng) và Ba Vũng (Quảng Ninh). Chính sự có mặt của Thác Hai đã góp phần tạo nên tính độc đáo và làm nổi bật vị trí của các địa điểm Bãi Tự, Tràng Kênh, Bãi Bến và Ba Vũng trong hệ thống công xưởng chế tác đá thời Tiền - Sơ sử ở Việt Nam. Theo đó, Thác Hai là địa điểm thứ năm phát hiện được mũi khoan trong số các công xưởng chế tác đá hiện biết ở Việt Nam.

Là một trong năm địa điểm phát hiện được mũi khoan ở Việt Nam, song mũi khoan đá ở công xưởng Thác Hai lại có những đặc điểm khác biệt hẳn so với các sưu tập ở bốn địa điểm còn lại. Trong khi các mũi khoan ở Bãi Tự, Tràng Kênh, Bãi Bến và Ba Vũng còn ở dạng phác vật, hoặc chỉ được ghè đẽo, tu chỉnh và có kích thước khá lớn, chủ yếu dùng trong kỹ thuật khoan tách lõi, thì những mũi khoan ở Thác Hai lại có kích thước nhỏ nhắn, ghè tu chỉnh và mài toàn thân cực kỳ trau chuốt, với mục đích sử dụng để khoan xuyên tâm, chế tác hạt chuỗi. Bên cạnh đó, ở Thác Hai còn có loại mũi khoan với hai đầu tác dụng mà trong cả bốn địa điểm Bãi Tự, Tràng Kênh, Bãi Bến và Ba Vũng không hề tồn tại. Cũng cần nhấn mạnh là, phần lớn mũi khoan ở Thác Hai chưa qua sử dụng, gợi mở khả năng đó là những sản phẩm làm ra để xuất đi nơi khác?

Phát hiện công xưởng chế tác mũi khoan đá độc đáo ở Thác Hai - Anh 2

 Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia thăm Công trường khai quật Thác Hai, 2022

Hiện vật độc đáo, hiếm lạ chưa từng gặp

Trên bình diện khu vực, theo các tài liệu hiện biết, cho đến nay ở Đông Nam Á hầu như chưa phát hiện được công xưởng chế tác mũi khoan nào thuộc cùng giai đoạn với Thác Hai.

Có một vài công xưởng chế tác đồ trang sức, ví dụ như Khao Sam Kaeo ở Nam Thái Lan, tuy nhiên ở đây cũng không hề phát hiện được mũi khoan như ở Thác Hai. Trong một bối cảnh rộng hơn, trên tiểu lục địa Ấn Độ, tại địa điểm Dholavira (niên đại 4000 - 3500 năm BP) thuộc văn hóa Harappa, các nhà khảo cổ đã khai quật được nhiều mũi khoan bằng đá, dùng trong việc chế tác hạt chuỗi. Các mũi khoan ở Dholavira cũng được mài khá trau chuốt, có loại tiết diện đa giác và tiết diện tròn, mũi nhọn giống với Thác Hai. Tuy nhiên, khi so sánh trên các tiêu chí như tiết diện thân, góc mũi, chất liệu thì rõ ràng mũi khoan ở Thác Hai đa dạng và phong phú hơn hẳn so với mũi khoan ở Dholavira lõi.

Có thể những nét tương đồng đó là do đồng quy về kỹ thuật, chứ không phải đến từ mối quan hệ truyền thống hay giao lưu văn hóa trong quá khứ. Và ở chiều ngược lại, nếu sự tương đồng đó là kết quả của sự giao lưu kỹ thuật giữa vùng cao nguyên Trung phần của Việt Nam với tiểu lục địa Ấn Độ, thì sưu tập mũi khoan đá Thác Hai lại chính là bằng chứng sớm nhất về mối quan hệ giữa bán đảo Đông Dương với Ấn Độ thời Tiền - Sơ sử. Như vậy, có thể nói rằng, trong giai đoạn Hậu kỳ Đá mới ở cả Việt Nam và Đông Nam Á, công xưởng chế tác mũi khoan đá Thác Hai thực sự là những hiện vật độc đáo, hiếm lạ chưa từng gặp.

Trong tổng thể di tích, di vật phát hiện ở Thác Hai, sưu tập mũi khoan bằng đá giữ vị trí nổi bật, góp phần quan trọng trong việc nhận thức về đặc trưng cũng như giá trị của di chỉ này. Sự xuất hiện với số lượng lớn của mũi khoan cùng với các hiện vật khác đi kèm như hạch đá, mảnh tước, vẩy tước, phác vật, phế vật… là bằng chứng rất rõ ràng về một chuỗi chế tác hoàn chỉnh từ đá nguyên liệu cho tới sản phẩm cuối cùng là mũi khoan. Không chỉ cung cấp bằng chứng về một chuỗi chế tác, mà sưu tập mũi khoan đá Thác Hai còn minh chứng cho sự phát triển đỉnh cao trong kỹ thuật chế tác đá ở Tây Nguyên giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Có thể nói, ở Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung, không có công xưởng chế tác công cụ sản xuất nào có sản phẩm là mũi khoan như Thác Hai, với sự hiện diện đầy đủ các kỹ thuật chế tác đá, từ ghè đẽo, tu chỉnh ép cho tới mài, cưa, đánh bóng… Chính sự phát triển đỉnh cao về kỹ thuật chế tác đá này sẽ là nền tảng để cư dân Thác Hai tiếp thu các thành tựu mới về kỹ thuật của thời đại để tiếp tục phát triển là một trung tâm thủ công của khu vực này vào giai đoạn Sơ kỳ Sắt sớm.

Đặc điểm của sưu tập mũi khoan đá Thác Hai là hầu hết chưa qua sử dụng, do đó, nó chính là sản phẩm để xuất đi nơi khác. Điều này gợi mở khả năng tìm hiểu về mạng lưới trao đổi giữa các công xưởng chế tác đá trong thời Tiền - Sơ sử ở Tây Nguyên nói riêng và Đông Nam Á nói chung. Xung quanh Thác Hai, dọc theo dòng sông Ea H’leo, các nhà khảo cổ đã nhận diện được một số địa điểm có đá nguyên liệu, mảnh tước, thậm chí có cả mũi khoan… có nét tương đồng với Thác Hai, mở ra khả năng về sự có mặt của một hệ thống công xưởng tồn tại dọc theo sông Ea H’leo, cung cấp sản phẩm cho các địa điểm Tiền Sa Huỳnh - Sa Huỳnh ở phía ven biển phía Đông và các địa điểm khảo cổ ở Campuchia ở phía Tây. Trong bối cảnh đó, di chỉ Thác Hai với sưu tập mũi khoan đá nổi lên như một điển hình, một trung tâm thủ công nghiệp của thời đại, với những minh chứng rõ ràng về một công xưởng lớn chế tác mũi khoan đá tại chỗ.

Với những giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa trên, có thể thấy, di chỉ công xưởng chế tác mũi khoan đá Thác Hai có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu thời Tiền - Sơ sử ở Tây Nguyên và khu vực. Và đặc biệt, bộ sưu tập mũi khoan đá ở đây là hiện vật gốc, độc bản, độc đáo, điển hình, có niên đại xác thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng qua khai quật khảo cổ học xứng đáng để đề nghị công nhận là Bảo vật quốc gia. 

 PGS.TS BÙI VĂN LIÊM, ThS TRẦN QUANG NĂM

Ý kiến bạn đọc