Công nghiệp văn hóa từ di sản: Không nên chỉ tập trung vào phần cứng
VHO - Không chỉ có ý nghĩa như một nơi gìn giữ các giá trị văn hóa cho một dân tộc, di sản còn là một ‘‘nhà máy’’ sản xuất các sản phẩm văn hóa: Người ta không chỉ tới đó chiêm ngưỡng di sản mà còn tiêu thụ các sản phẩm như chương trình biểu diễn, giảng dạy, show diễn tương tác, thưởng thức ẩm thực và mua các sản phẩm lưu niệm, các khóa học online và thậm chí còn trở thành các nhà tài trợ, bảo trợ.
Festival Huế là một minh chứng rõ ràng của việc khai thác di sản một cách uyển chuyển Ảnh: Anh Việt
Những việc cần làm
Để nâng cao giá trị của các sản phẩm công nghiệp văn hóa trên nền tảng các di sản cần có sự phối hợp giữa phần cứng (di sản vật thể) và phần mềm (di sản phi vật thể, dịch vụ văn hóa đi kèm).
Có thể hiểu phần cứng của các di sản chính là các di tích, di vật, di sản vật lý cũng như các cơ sở vật chất phục vụ việc ăn, ngủ, nghỉ và các nhu cầu khác của khách tham quan. Đã không ít lần, nhiều công ty du lịch đã phải kêu trời vì tại khu di tích thiếu thốn những cơ sở vật chất tối thiểu cho khách du lịch. Thậm chí có những khu không có nơi uống nước, không có khu bán đồ lưu niệm, không có bảng chỉ dẫn, không có ghế nghỉ... làm du khách có cảm giác như đi vào chỗ không người, không được chăm sóc. Như vậy rất khó cho họ có thể quay lại nơi này hoặc giới thiệu những người khác đến thăm di tích này.
Khi được chỉnh trang hợp lý, về phần cứng có thể trở thành các sân khấu để biểu diễn; địa điểm để làm sắp đặt ánh sáng, âm thanh; trưng bày các tác phẩm nhiếp ảnh, điêu khắc, thủ công mỹ nghệ đương đại. Địa điểm của các di tích cũng có thể được cho thuê làm triển lãm nghệ thuật, tiếp tân của các công ty với mức giá đặc biệt, mang lại nhiều giá trị cho chính khu di tích, đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương của cơ quan chủ quản.
Bên cạnh đó, phần mềm chính là các hoạt động có giá trị gia tăng cao, có khả năng phát triển gần như vô hạn và có thể kêu gọi sự tham gia của nhiều bên như nhà nước, nhà đầu tư, khách tham quan và công chúng nói chung. Với quan điểm giáo dục hiện đại, biên giới của lớp học được đẩy lùi ra khỏi 4 bức tường, bảo tàng, di tích chính là những lớp học sống động cho học sinh, sinh viên. Thật không hiếm khi thấy các đoàn học sinh vào học tập tại các di tích để trau dồi kiến thức về lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế, khoa học... Không chỉ dành riêng cho học sinh trong nước, dịch vụ giáo dục tại các di tích có thể được bán cho học sinh sinh viên nước ngoài. Cũng không loại trừ việc nhiều di tích kết hợp với nhau để cùng bán một dịch vụ giáo dục hoặc tham quan theo chủ đề. Với người trưởng thành, di tích cũng là nơi để thưởng thức nghệ thuật, điện ảnh, ẩm thực, các seminar theo chủ đề, các lớp dạy mỹ thuật, thủ công mỹ nghệ và các dạng hình nghệ thuật hiện đại khác do BQL di tích tổ chức.
Di tích cần phải được nhìn nhận như một nơi gìn giữ và phát triển nghệ thuật sống, kết nối xưa và nay. Đây chính là nơi gìn giữ và phát triển các yếu tố văn hóa truyền thống thông qua việc đưa các yếu tố này vào cuộc sống đương đại. Những đường nét trang trí hoa văn truyền thống có thể xuất hiện trên những chiếc áo dài, áo phông, giày dép, ốp điện thoại, các sản phẩm trang trí nhà cửa, trang sức, thời trang...
Di tích cũng có thể trở thành sân khấu cho các vở diễn nghệ thuật đương đại như À Ố show, Làng tôi; các show diễn thực cảnh như Ký ức Hội An, Tinh hoa Việt Nam, Tinh hoa Bắc Bộ... Những hoạt động này không chỉ mang lại nguồn thu từ việc bán vé mà còn mang lại lợi ích về công ăn việc làm, phát triển xã hội, gìn giữ ẩm thực địa phương, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra với thế giới.
Gìn giữ di tích không nhất thiết là chỉ gắn vào truyền thống lịch sử văn hóa đã có mà còn có thể gắn vào những giá trị mới sinh ra. Ví dụ như hang én Quảng Bình là nơi đã quay bộ phim bom tấn của Hollywood là Peter Pan: The Neverland hay Ninh Bình là nơi đã quay bộ phim Kong nổi tiếng toàn cầu. Chúng ta hoàn toàn có thể đàm phán với đoàn làm phim để giữ lại phim trường và cùng khai thác thương mại. Cách làm này đã được Trung Quốc, Hàn Quốc làm rất thành công với các phim trường hoặc các địa điểm lịch sử mà họ đã quay những bộ phim nổi tiếng. Thành phố Lyon ở Pháp đã làm nức lòng khách du lịch trong nước và quốc tế với việc tổ chức Festival sắp đặt ánh sáng, trong đó những di tích lịch sử và nhiều tòa nhà trong thành phố đã biến thành “màn chiếu” cho các tác phẩm điêu khắc bằng ánh sáng. Điều này giúp khai thác di tích cả ban ngày và cả vào buổi tối mang lại những giá trị gia tăng đáng kể mà không làm thay đổi tác động xấu đến di tích.
Không chỉ “đứng một mình” các di tích, đơn vị hoạt động văn hóa cần có sự kết hợp liên chủ đề hoặc liên lợi ích để “kích thích” khách hàng sử dụng các sản phẩm, dịch vụ văn hóa nhiều hơn. Các thành phố du lịch như Roma, Paris đều có một loại thẻ để sử dụng các dịch vụ giao thông công cộng và thăm một số di tích. Vì “rẻ” như thế nên du khách cố gắng đi nhiều nhất có thể được và tạo ra lượt tham quan cũng như các tiêu dùng ở mỗi điểm di tích. Về mặt liên kết theo chủ đề thì một chủ đề như người Việt và văn hóa châu Âu có thể được khai thác trên nhiều di tích khác nhau từ kịch nói, điện ảnh cho đến bảo tàng, di tích lịch sử, các vùng đất lịch sử, các gia đình có truyền thống…
Thời đại số đã mang đến những cơ hội chưa từng có: Trong dịp cách ly vì Covid-19, Ai Cập đã cho truyền hình trực tiếp trên YouTube video khám phá lăng mộ cổ, tạo ra nhu cầu tham quan trong tương lai. Các sản phẩm nghệ thuật trên không gian số NFT có thể có giá trị hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu đô la dù đó “chỉ” là một bức ảnh số, một tác phẩm nghệ thuật thị giác thuần túy được tạo ra trên máy tính, thậm chí là do trí tuệ nhân tạo tạo ra.Các bức ảnh về di sản, di vật hiếm có, có thể trở thành các tài sản số và được mua bán trên không gian mạng.
Khi các di tích được khai thác tốt cả phần cứng và phần mềm một cách uyển chuyển, giá trị về sự ảnh hưởng tạo ra từ đó sẽ hấp dẫn các nhà tài trợ, các nhà bảo trợ trong và ngoài nước. Điều này sẽ mang lại một sức sống mới, một sức mạnh chưa từng có.
Những điểm sáng tại Việt Nam |
Vai trò các thành tố trong thị trường công nghiệp văn hóa từ di sản
Trước hết cần xác định một tư duy chung đó là đã làm công nghiệp văn hóa thì phải tuân thủ các quy luật của công nghiệp: Đó là quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, tôn trọng bản quyền, khả năng nhân bản và mở rộng quy mô, yêu cầu về giám sát và xử phạt các vi phạm. Các nhà kinh doanh sản phẩm dịch vụ văn hóa phải coi người trả tiền là khách hàng thay vì công chúng thông thường. Công nghiệp văn hóa cần có sự tham gia và phân rõ trách nhiệm của các thành tố, trong đó Nhà nước vừa đóng vai trò là nhà đầu tư, nhà quản lý, nhà giám sát. Khi nhà nước đưa ra những chính sách phù hợp, tất cả các thành tố sẽ có một luật chơi chung để quyết định về mức đầu tư, mức độ hoạt động, mức độ tham gia của mình vào thị trường công nghiệp này.
Nhà đầu tư có thể là các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cá nhân hoặc tập thể hoặc quỹ đầu tư. Không chỉ mang đến tiền, họ còn mang đến các cơ hội nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, trình độ công nghệ kỹ thuật, thu hút khách tham quan.
Nhà văn hóa là những người nghiên cứu, những chuyên gia về các vấn đề văn hóa. Họ hoạt động như những nhà tư vấn để đảm bảo tính chính xác của các yếu tố văn hóa được sử dụng và trình diễn. Nhà sản xuất sản phẩm, dịch vụ văn hóa, cần được đảm bảo về sự ổn định của môi trường kinh doanh và đầu tư để từ đó đưa ra các sản phẩm hữu hình và các dịch vụ văn hóa dành cho khách hàng.
Bên cạnh đó là vai trò của nhà truyền thông, những người làm công tác truyền thông, báo chí, quảng bá cho các sản phẩm dịch vụ đến được với người tiêu dùng cuối. Nhà trường: Các đơn vị đào tạo cần nhanh chóng chỉnh sửa các chương trình đào tạo hiện có sao cho phù hợp nhất với nhu cầu thị trường bằng cách phối hợp chặt chẽ với các nhà văn hóa, nhà sản xuất, nhà truyền thông. Không chỉ đào tạo những nghề đang có, nhà trường gần học cách đào tạo những vị trí và yêu cầu công việc mới trong thời đại số. Chẳng hạn như những nhà truyền thông số, những người chăm sóc quan hệ cộng đồng trên không gian số, các nhà sáng tạo nội dung và thiết kế sản phẩm truyền thông số, các luật sư có chuyên ngành về sở hữu trí tuệ trên không gian số, các chuyên gia tài chính số...
Chỉ khi có sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa tất cả các thành tố này trong một môi trường pháp luật minh bạch, ổn định, thì công nghiệp văn hóa Việt Nam từ di sản mới có được các điều kiện cần và đủ để phát triển bền vững.
Những cỗ máy không chỉ hái ra tiền Mỗi năm, những địa danh nổi tiếng có thể thu hút hàng triệu người tham quan và tạo ra hàng triệu đô la doanh thu. Trước dịch Covid, năm 2019, các địa danh như Vatican thu hút tới hơn 5 triệu khách du lịch một năm; đấu trường Colosseum ở Roma hơn 7,6 triệu người; di tích Ayutthaya - Thailand thu hút 8 triệu người; Angkorvat, Campuchia là 2,2 triệu lượt khách quốc tế. Các thành phố, quốc gia cũng tận dụng sự nổi tiếng và độc đáo của các di sản để cho các đoàn làm phim thuê. |
Thạc sĩ quản trị văn hóa NGUYỄN ĐÌNH THÀNH