Tiếng Chinh Ba rộn rã mùa xuân

LÊ HỒNG KHÁNH

VHO - H’Tend (Lễ hội đầu mùa) là lễ hội lớn nhất trong một năm của người Hrê, diễn ra vào giữa mùa Xuân. Tiếng chinh ba là linh hồn của lễ hội mà cũng là linh hồn của mùa Xuân.

Tiếng Chinh Ba rộn rã mùa xuân - ảnh 1
Khách nước ngoài giao lưu túc chinh với đồng bào Hrê. Ảnh: ĐỨC PHONG

Người Hrê gọi chiêng là “chinh”, các hình thức biểu diễn cồng chiêng gọi là “tuk chinh” (túc chinh) nghĩa là “đánh vào chinh Túc”, một trong ba chiếc của bộ chinh ba.

Đúng như tên gọi, bộ chinh ba có 3 chiếc chinh, kích cỡ không bằng nhau. Chiếc lớn nhất là chinh Vông (chinh Cha), chiếc nhỏ hơn là chinh Tum (chinh Mẹ), chiếc nhỏ nhất là chinh Túc (chinh Con). Khi trình diễn, nghệ nhân ngồi ở vị trí ổn định, không di chuyển; chinh Vông để nghiêng, chinh Tum để nằm, chinh Túc treo trên dây. Các buổi túc chinh thường diễn ra ở đầu tra - gian đón tiếp khách phía trước nhà sàn.

Theo quan niệm của người Hrê, chinh được coi như thước đo tài sản của mỗi gia đình, vị thế của gia chủ trong cộng đồng, đồng thời là vật thiêng liêng, dùng làm phương tiện cầu xin thần linh ban cho làng bản, gia đình nhân hòa vật thịnh. Người Hrê cất giữ bộ chinh ở “góc thiêng” trong nhà, cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, chủ nhà khi ngủ quay đầu vào đó. Trước khi mang ra sử dụng, đồng bào phải thực hiện nghi thức cúng hồn chinh. Khi hành lễ, chủ nhà cắt tiết gà nhỏ vào bụng chinh, theo thứ tự: Chinh Vông trước, sau đó đến chinh Tum và chinh Túc sau cùng.

Bộ chinh ba của người Hrê có âm ngân vang rất xa, khi đánh lên, âm thanh xuyên qua núi rừng; làng bên này túc chinh, làng bên kia có thể nghe được. Nghệ nhân Hrê không diễn tấu chinh bằng dùi mà đánh bằng tay, cộng với các kỹ thuật búng, gõ bằng ngón tay rất độc đáo. Người đánh chiếc chinh Túc được nghỉ giữa các đoạn nhạc để thay đổi tư thế ngồi, chỉnh sửa khăn quấn đầu; còn người hai đánh chinh Vông và chinh Tum phải đến lúc kết thúc bản nhạc mới được nghỉ.

Khi một dàn chiêng hòa tấu, chinh Vông và chinh Tum chủ yếu giữ nhịp và đệm. Chinh Túc hình thành giai điệu, sắc thái, đồng thời giữ quyền quyết định kết thúc một bài chinh. Nghệ nhân đánh chinh Túc là người vừa có năng khiếu âm nhạc, vừa có quá trình tập luyện lâu dài, trình độ biểu diễn cao, biết phân đoạn, tạo ra câu nhạc, lối chơi phong phú, thể hiện phong cách riêng. Một bài chinh dài hay ngắn, hấp dẫn người nghe hay không phụ thuộc nhiều vào khả năng biểu diễn, đặc biệt là ứng tác của nghệ nhân đánh chinh Túc. Người Hrê gọi việc đánh cồng chiêng là “Túc chinh” chính là vì vai trò quan trọng của chinh Túc như vậy.

Tiết tấu các bài chinh được quy định theo trình thức: Bắt đầu với tốc độ chậm, chuyển sang chậm vừa, nhanh dần, rồi thúc giục, lên cao trào và kết thúc. Chinh Túc kết thúc đầu tiên, tiếp theo là chinh Tum, cuối cùng là chinh Vông.

Có bốn điệu chinh ba cơ bản: Chinh Năng, Chinh K’oa, Chinh H’lay và Chinh Tuguốc.

Chinh Năng (Túc Năng) là điệu chinh phổ biến, nghe vui nhộn, giục giã, gọi mời, sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt của bà con vào dịp Tết cổ truyền, lễ ăn trâu, lễ cưới… Quá trình diễn tấu bắt đầu với cách đánh thong dong, chậm rãi để chờ ổn định nhịp, sau đó tốc độ dần nhanh hơn.

Chinh K’oa (Túc K’oa) mô phỏng âm thanh của tiếng ếch, nhái. Điệu chinh này rất khó biểu diễn vì tiết tấu, âm sắc, nhịp điệu rất tinh tế.

Chinh H’lay (Túc H’lay)  mô phỏng âm thanh của tiếng thác đổ, nước suối chảy; cấu trúc câu, đoạn khá rõ ràng, thường được diễn tấu trong sinh hoạt vui chơi, nhảy múa…

Chinh Tuguốc (Túc Tuguốc) mô phỏng tiếng hót của loài chim Tuguốc, rất gần gũi với người Hrê. Đây là điệu chinh có tính chất đối đáp, tự sự, tỏ bày.

Khi biểu diễn ở các buổi lễ (của gia đình và cộng đồng), dàn chinh thể hiện phong cách nghiêm cẩn, đúng trình tự, bài bản. Trong các cuộc hội hè, nghệ nhân vừa biểu diễn theo bài bản, vừa ứng tác ngẫu hứng, chủ ý tạo không khí vui tươi, hứng khởi.

Với trình thức diễn tấu độc đáo, giai điệu phong phú, âm thanh giàu sắc thái riêng biệt, chinh Ba là một di sản văn hóa quý báu của tộc người Hrê, có thể kết hợp với các thành tố trong kho tàng di sản văn hóa người Hrê như dệt thổ cẩm, chế biến và sử dụng rượu cần, các món ăn từ nguyên liệu của núi rừng (cá niên nướng, canh rau ranh ốc đá…) để trở thành một sản phẩm du lịch có giá trị.

Chuẩn bị lễ hội H’Tend, con trai lên rừng săn thú, con gái xuống suối bắt cá niên, ốc đá, hái rau ranh. Ngày Tết, sau lễ cúng các thần linh, bà con mời nhau cùng uống rượu cần, hát dân ca (ca lêu, ca choi…), chơi đàn brok, thổi tù và, kèn môi và túc chinh thâu đêm suốt sáng, âm vang rộn rã núi rừng. 

Tin liên quan

Ý kiến bạn đọc