Mối quan hệ giữa quyền sở hữu trí tuệ và quyền con người luôn là chủ đề gây tranh cãi
VHO - Trong vài thập kỷ trở lại đây, Hiệp định thương mại tự do (FTA) đang được coi là một trào lưu phát triển mạnh, với các vấn đề phi thương mại đặt ra cơ hội cũng như những thách thức to lớn trong việc xây dựng chính sách pháp luật của Việt Nam. Song song đó, các quy định của FTAs cũng đồng thời đặt ra nhiều thách thức mới cho Việt Nam trong việc hoàn thiện chính sách pháp luật, đặc biệt trong các lĩnh vực lao động, môi trường và sở hữu trí tuệ.
Hội thảo ghi nhận ý kiến của các chuyên gia về vấn đề lao động, môi trường và sở hữu trí tuệ trong việc hoàn thiện chính sách pháp luật
Thách thức xuất phát từ điều kiện nội tại của quốc gia
Tại Hội thảo quốc tế “Thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới tại Việt Nam: Những thách thức trong lĩnh vực lao động, môi trường và sở hữu trí tuệ”, do Trường ĐH Luật TP.HCM tổ chức cuối tuần qua, các chuyên gia cho rằng, thời gian qua Nhà nước đã và đang tích cực đàm phán và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do và coi đó là nền tảng cho chiến lược phát triển quan trọng trong giai đoạn tới. Việt Nam đã ký 16 hiệp định thương mại tự do, các FTA sẽ đem lại nhiều cơ hội phát triển thị trường cho Việt Nam. Nhưng ở một khía cạnh khác, FTA thế hệ mới cũng đặt ra những quy định và tiêu chuẩn gắt gao đối các bên tham gia nhằm nâng cao tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm cũng như các giá trị cốt lõi của sự phát triển bền vững.
Theo nhóm nghiên cứu của PGS.TS Trần Việt Dũng, Trưởng Khoa Luật Quốc tế, Trường ĐH Luật TP.HCM và các cộng sự, nhìn chung, với những cam kết về bảo vệ môi trường, khi thực thi EVFTA và CPTPP, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức xuất phát từ điều kiện nội tại của quốc gia và cả về mặt đối ngoại. Có thể nhìn nhận một số thách thức mang tính vĩ mô như: Đối với lĩnh vực chống biến đổi khí hậu, Việt Nam hiện vẫn chưa có khung pháp lý đầy đủ để thực hiện cam kết về chống biến đổi khí hậu theo tiêu chuẩn quốc tế cao nhất.
PGS.TS Trần Việt Dũng bàn về vấn đề thực hiện các cam kết về môi trường và lao động
“Thực ra, đây là một vấn đề mới mẻ đối với Việt Nam, cho dù pháp luật môi trường Việt cũng đã có những sự công nhận nhất định về vấn đề này. Cụ thể, Chính phủ đã có chỉ thị thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và cũng đã gia tăng cam kết về thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu theo Thỏa ước Paris. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 tại Chương VII và Chương XI vẫn chỉ mới dừng lại ở việc hình thành nên các quy định mang tính nguyên tắc chung cho việc chống biến đổi khí hậu, bảo vệ tầng ô-dôn hay xây dựng thị trường cac-bon trong nước. Hầu hết các văn bản của Chính phủ chỉ mang tính định hướng hoạch định chính sách, chưa thật sự cụ thể để triển khai áp dụng trên thực tế các quy định đối với vấn đề biến đổi khí hậu”, ông Dũng cho biết.
Các chuyên gia cũng nhận định rằng, trong lĩnh vực lao động, Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức từ việc thực bốn tiêu chuẩn lao động quốc tế. Đó là, thách thức về tái cơ cấu hệ thống công đoàn lao động; thách thức trong quan hệ lao động; thách thức trong bảo đảm một thị trường lao động công bằng giữa các giới, giữa các lứa tuổi lao động trong bối cảnh hiện nay. Từ góc độ pháp luật, việc lên án hành vi quấy rối tình dục là hiển nhiên và không được chấp nhận. Tuy nhiên, thách thức trong việc bảo đảm thực thi các quy định liên quan là không đơn giản xuất phát từ nhiều yếu tố văn hóa xã hội khác nhau. Cạnh đó, việc thực hiện các tiêu chuẩn lao động quốc tế cũng đặt ra thách thức mới, không chỉ đối với quản lý Nhà nước mà còn có thể ảnh hưởng đến ổn định chính trị-xã hội. Do đó, các quy định về lao động trong các hiệp định thương mại tự do chiến lược của Việt Nam hứa hẹn sẽ củng cố quyền lợi của người lao động tại Việt Nam, nhưng cũng là thách thức trong thực tiễn đối với Việt Nam.
Quyền sở hữu trí tuệ có phải là quyền con người hay không?
Theo các chuyên gia, mối quan hệ giữa quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và quyền con người luôn là chủ đề gây tranh cãi. Có những ý kiến trái ngược về vấn đề liệu quyền SHTT có phải là quyền con người hay không. Đồng thời, trong khi một số người cho rằng bảo hộ quyền SHTT giúp bảo đảm quyền con người, một số khác lại cho rằng bảo hộ quyền SHTT có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm quyền con người.
Một lớp tập huấn về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực văn hóa
Bàn về quyền SHTT và quyền con người, PGS.TS Trần Thị Thùy Dương cho rằng, khi nghiên cứu các quy định về bảo hộ quyền SHTT trong các hiệp định thương mại thế hệ mới, có thể thấy 2 khuynh hướng chính. Thứ nhất, các quy định WTO+ đang xuất hiện, tăng cường việc bảo hộ các khía cạnh thương mại của quyền SHTT, đồng thời có nguy cơ ảnh hưởng đến một số quyền con người. Thứ hai, các ngoại lệ góp phần bảo đảm quyền con người lại khá mờ nhạt. Điều này đặt ra thách thức lớn trong việc thực hiện mục đích của Hiệp định TRIPs: hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của các bên, giữa lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế; đồng thời đem lại lợi ích không chỉ cho người tạo ra, mà cả người sử dụng kiến thức công nghệ. “Chúng tôi cho rằng, quyền SHTT có nhiều khía cạnh. Trong đó, có những khía cạnh không thể chuyển giao cho người khác, ví dụ như quyền nhân thân của tác giả. Vì vậy, khó có thể nói quyền SHTT chắc chắn không phải là quyền con người. Bên cạnh đó, quyền SHTT có thể tác động đến việc bảo đảm các quyền con người khác theo nhiều cách, tiêu cực hoặc tích cực. Điều quan trọng nhất là làm thế nào để hài hòa tốt nhất giữa việc bảo hộ quyền SHTT và bảo đảm những quyền con người khác. Một trong những phương tiện để tạo lập sự hài hòa này chính là luật pháp, trong đó có những quy định của luật quốc tế, đặc biệt là các hiệp định thương mại khu vực thế hệ mới”, chuyên gia này phân tích.
Các nhận định cũng chỉ ra rằng, quyền SHTT cũng có khía cạnh liên quan đến thương mại và khía cạnh không liên quan đến thương mại. Các khía cạnh liên quan đến thương mại có thể được hiểu là những khía cạnh của quyền SHTT mà việc bảo hộ hay không sẽ ảnh hưởng đến lợi ích thương mại của chủ sở hữu quyền SHTT và các bên liên quan. Điều đáng chú ý là, các hiệp định thương mại, dù là đa phương hay khu vực, thường chỉ quan tâm đến khía cạnh thương mại của quyền SHTT. Vì thế, chúng được thiết kế theo logic: đại đa số quy tắc xoay quanh việc bảo hộ các khía cạnh của quyền SHTT liên quan đến thương mại; các khía cạnh liên quan đến việc bảo đảm những quyền con người khác (như quyền về sức khỏe, quyền sống trong môi trường trong lành, quyền về thông tin…) thường được ghi nhận trong các ngoại lệ.
Theo TS Nguyễn Hồ Bích Hằng, việc Việt Nam tham gia vào các hiệp định thương mại thế hệ mới cho thấy sự nỗ lực không ngừng của Chính phủ trong việc thúc đẩy sự phát triển đất nước một cách toàn diện. Các hiệp định thương mại thế hệ mới mở ra nhiều cơ hội mới đồng thời cũng chứa đựng nhiều thách thức cho Việt Nam. Tuy việc thực thi các cam kết về bảo hộ quyền SHTT trong các hiệp định thương mại là nghĩa vụ của các bên, nhưng làm cách nào để hài hoà và đảm bảo sự phát triển bền vững của Việt Nam khi tham gia các hiệp định thương mại đó là sự thách thức cho các nhà làm luật và chính sách.
THÙY TRANG