“Cơn khát” lao động nhập cư của Nhật Bản giải quyết khủng hoảng dân số

MINH DƯƠNG

VHO - Theo dữ liệu của chính phủ, dân số Nhật Bản ghi nhận đã giảm hơn 900.000 người vào năm ngoái - mức giảm lớn nhất hàng năm được ghi nhận,.

“Cơn khát” lao động nhập cư của Nhật Bản giải quyết khủng hoảng dân số - ảnh 1
Trẻ em chơi đùa tại một trường mẫu giáo ở thành phố Koga, tỉnh Fukuoka . Ảnh: Toshiro Kubo/he Yomiuri Shimbun/AP/File

Dữ liệu do Bộ Nội vụ và Truyền thông công bố mới đây cho biết dân số Nhật Bản năm 2024 giảm khoảng 908.000 người so với năm 2023, xuống còn 120.653.227 người. 

Kể từ khi đạt đỉnh 126,6 triệu người vào năm 2009, dân số Nhật Bản đã giảm liên tục trong 16 năm liên tiếp, do nhiều yếu tố như nền kinh tế khó khăn và các chuẩn mực giới tính "ăn sâu bén rễ".

Khi dân số Nhật Bản được dự đoán sẽ tiếp tục giảm mạnh trong nhiều thập kỷ tới, đất nước này sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề từ hệ thống lương hưu và chăm sóc sức khỏe, cũng như các cơ sở hạ tầng xã hội khó có thể duy trì khi lực lượng lao động ngày càng thu hẹp.

Chính phủ Nhật Bản đã liên tăng cường các biện pháp đối phó với tình trạng dân số suy giảm mạnh trong hơn một thập kỷ.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, quy mô của cuộc khủng hoảng đang trở nên rõ ràng hơn, từ cung cấp trợ cấp sinh nở và nhà ở cho đến khuyến khích các ông bố nghỉ phép chăm con.

Mặc dù vậy, mỗi năm, số trẻ em được sinh ra lại ít hơn, trong khi số ca tử vong cũng tăng lên.

Diễn biến này như một vòng luẩn quẩn và là triệu chứng của tình trạng dân số ngày càng già hóa. Tỷ lệ người cao tuổi quá cao – chiếm khoảng 30% dân số, theo dữ liệu mới – trong khi tỷ lệ người trẻ tuổi, trong độ tuổi sinh đẻ và lao động, liên tục giảm.

Năm ngoái cũng không ngoại lệ. 687.689 ca sinh được ghi nhận, là mức thấp nhất trong số các số liệu thống kê kể từ năm 1968 đến nay.

Trong khi đó, số ca tử vong, ước tính khoảng 1,6 triệu, là mức cao nhất được ghi nhận.

Dân số trong độ tuổi lao động, được định nghĩa là từ 15 đến 64 tuổi, chỉ chiếm 59% dân số Nhật Bản vào năm ngoái – thấp hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu là 65%, theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).

Sự suy giảm này đã diễn ra trong nhiều thập kỷ, do tỷ lệ sinh thấp của Nhật Bản kể từ những năm 1970. Chính vì vậy, các nhà xã hội học và nhân khẩu học cho rằng vẫn chưa có cách khắc phục và tình trạng này không thể đảo ngược.

Ngay cả khi Nhật Bản có thể tăng tỷ lệ sinh một cách đáng kể và ngay lập tức thì, theo các chuyên gia, dân số của nước này chắc chắn sẽ tiếp tục giảm trong ít nhất vài thập kỷ nữa cho đến khi tỷ lệ chênh lệch trẻ-già được cân bằng, và những đứa trẻ được sinh ra hiện đã đến tuổi sinh đẻ.

Vấn đề liên quan đến người nhập cư

Các chuyên gia chỉ ra rằng chi phí sinh hoạt cao, nền kinh tế trì trệ, không gian hạn chế và văn hóa làm việc khắt khe tại Nhật Bản là những lý do khiến ngày càng ít người lựa chọn hẹn hò, kết hôn hoặc sinh con.

Đối với phụ nữ, chi phí kinh tế không phải là rào cản duy nhất. Nhật Bản vẫn là một xã hội gia trưởng, nơi phụ nữ đã kết hôn thường được kỳ vọng sẽ đảm nhận vai trò chăm sóc gia đình, bất chấp những nỗ lực của chính phủ nhằm khuyến khích người chồng tham gia nhiều hơn.

Tình trạng cha mẹ đơn thân ở Nhật Bản ít phổ biến hơn nhiều so với nhiều nước phương Tây.

Các chuyên gia đã chỉ ra một giải pháp khả thi thu hẹp khoảng cách, đó là chào đón thêm người nhập cư - một chủ đề gây tranh cãi ở Nhật Bản, một quốc gia phần lớn bảo thủ và tự coi mình là đồng nhất về mặt sắc tộc.

Chính phủ Nhật Bản đã ban hành thị thực du mục kỹ thuật số mới đồng thời xây dựng kế hoạch mới nâng cao kỹ năng cho người lao động nước ngoài.

Nhiều dấu hiệu cho thấy kế hoạch này đang có hiệu lực. Số lượng cư dân nước ngoài tại Nhật Bản đã tăng hơn 10% vào năm ngoái, đạt mức cao kỷ lục 3,6 triệu người, theo dữ liệu mới.

Theo các mô hình của chính phủ, được sửa đổi gần đây nhất vào năm 2023, dân số Nhật Bản sẽ giảm 30% vào năm 2070 - nhưng cũng vào thời điểm này, "tốc độ suy giảm dân số dự kiến sẽ chậm lại đôi chút, một phần là do sự gia tăng di cư quốc tế."