Menu
  1. Chính trị
  2. Văn hóa
  3. Nghệ thuật
  4. Giải trí
  5. Du lịch
  6. Thể thao
  7. Gia đình
  8. Kinh tế
  9. Ẩm thực
  10. Đời sống
  11. Nhịp sống số
  12. Pháp luật
  13. Thế giới
28 Tháng Ba 2024

Đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng vượt bậc

Thứ Sáu 26/10/2018 | 09:49 GMT+7

VHO- Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) của Việt Nam trên bảng xếp hạng toàn cầu theo báo cáo của WIPO (Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới) liên tục thăng hạng trong những năm gần đây. Cụ thể Việt Nam xếp thứ 71 năm 2014; 59 năm 2016; 47 năm 2017 và 45 năm 2018.

Đây là thứ hạng cao nhất mà Việt Nam đạt được từ trước tới nay và có thể nói là cột mốc đánh dấu sự tăng trưởng vượt bậc về các hoạt động ĐMST quốc gia.

Cột mốc đánh dấu tăng trưởng vượt bậc về đổi mới sáng tạo quốc gia

Nếu so sánh với thứ hạng GDP thì xếp hạng ĐMST quốc gia của Việt Nam có sự vượt trội hơn hẳn. Với 37,94/100 điểm, Việt Nam đứng thứ 45/126 Quốc gia về chỉ số đổi mới sáng tạo, tỷ lệ ĐMST hiệu quả đạt 0,8 (xếp hạng 16). Riêng trong nhóm thu nhập trung bình thấp, chỉ số ĐMST của Việt Nam xếp thứ 2, trên Moldova, Ấn Độ và Mông Cổ.

Đặc biệt Việt Nam xếp thứ 2 trong nhóm 30 quốc gia có thu nhập trung bình thấp được đánh giá. Báo cáo GII 2018 cũng cho thấy Việt Nam nằm trong top 5 của nhóm thu nhập trung bình thấp trong tất cả các chỉ số chính về ĐMST. Ông Edward Harris, Bộ phận Tin tức và Truyền thông, WIPO nhận xét: “Trong số các nền kinh tế thu nhập trung bình thấp, 4 quốc gia gồm: Ukraina, Cộng hòa Moldova và Việt Nam thể hiện xuất sắc hơn so với dự kiến khi xem xét dựa trên các chỉ số đầu vào. Chẳng hạn Việt Nam nổi bật trong tăng trưởng năng suất lao động, và là quốc gia dẫn đầu trong nhóm về xuất khẩu công nghệ cao.”

Việt Nam cũng có lợi thế về xuất khẩu phát triển ứng dụng di động. Xét theo khu vực địa lý, Việt Nam xếp thứ 10 trong khu vực Châu Đại Dương, Đông Á và Đông Nam Á. Khu vực này gồm các quốc gia tiên tiến như Singapore (thứ 5 về ĐMST toàn cầu), Hàn Quốc (thứ 12), Nhật Bản (thứ 13)…

   Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index, hay còn gọi là GII) được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO) phối hợp xây dựng cùng Trường Kinh doanh INSEAD, Pháp – một trong số các trường kinh doanh tốt nhất thế giới và Đại học Cornell , Hoa Kỳ - top 20 đại học tốt nhất thế giới theo xếp hạng QS và Times Higher Education (THE) và đã được nhiều tổ chức Quốc tế ghi nhận đánh giá, trong đó có WIPO, QS và World Bank.

Tăng cường đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học

Sau hơn 4 năm thực hiện yêu cầu “nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục”, số lượng và chất lượng các nhà khoa học đều tăng. Điều này thể hiện qua số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ và thạc sĩ tăng dần qua các năm.

Cụ thể, từ 2012 tới 2017, số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 14,4% lên 21,8%, giảng viên có trình độ thạc sĩ tăng từ 47% lên 59,4% qua các năm. Đồng thời giảng viên có trình độ khác giảm dần cả về con số tuyệt đối lẫn tỉ lệ % (giảm từ 38,6% xuống còn 18,6%). Ngành giáo dục đang sở hữu một lực lượng dồi dào các nhà khoa học trình độ cao hơn hẳn so với các ngành khác trong cả nước (chiếm hơn 50%) với nguồn nhân lực chất lượng cao (PGS, GS, TS). Đặc biệt, hơn hẳn nguồn nhân lực chất lượng cao tại các viện nghiên cứu và các tổ chức KHCN.

Các nhà khoa học trong ngành giáo dục đã có nhiều đóng góp cho phát triển giáo dục, kinh tế - xã hội, đạt được nhiều giải thưởng cao quý quốc tế và quốc gia. Một trong số các mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng là hoạt động NCKH. Hoạt động NCKH được thể hiện thông qua: số lượng NCKH của các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH), qua các thông bố quốc tế và khả năng ứng dụng thực tiễn. Thành tựu hoạt động KHCN trong các cơ sở GDĐH không ngừng được cải thiện kể từ sau Nghị quyết 29 NQ/TW.

Trước đó, năm 2010, theo thống kê trong 56.000 cán bộ giảng dạy ở các trường đại học, cao đẳng chỉ có khoảng 1.100 giảng viên (chiếm 3%) tham gia NCKH và rất ít giảng viên trẻ tham gia nghiên cứu. Sau 4 năm thực hiện Nghị quyết 29, Theo Báo cáo Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2016, khu vực các trường đại học đóng góp hơn 50% tổng số nhân lực khoa học công nghệ (KHCN) trong cả nước. Tính đến hết năm 2017, trong các cơ sở GD ĐH đã có 945 nhóm nghiên cứu. Đây là những kết quả rất tích cực có tác động nâng cao năng lực nghiên cứu giảng dạy của các trường ĐH, thúc đẩy GDĐH Việt Nam hội nhập với GD ĐH Quốc tế đồng thời qua đó góp phần đưa khoa học công nghệ vào cuộc sống

Cùng với việc thăng hạng trên các bảng xếp hạng trường ĐH của Quốc tế, tỉ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên, tốc độ tăng cường nghiên cứu khoa học gắn với đào tạo là những chỉ số minh chứng về chất lượng, vị thế của GDĐH Việt Nam đã có những bước chuyển mình rất đáng kể. Hội nhập sâu hơn với GDĐH thế giới, tăng cường chất lượng, năng lực đào tạo gắn với KHCN để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế, GDĐH đang ngày càng khẳng định vị thế vai trò của mình. 

QUỐC HÙNG

Print

Video

© BÁO VĂN HÓA ĐIỆN TỬ
Cơ quan chủ quản: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Giấy phép Báo điện tử số: 422/GP-BTTTT cấp ngày 19.8.2016
Bản quyền thuộc về Báo Văn hóa. Mọi hành động sử dụng nội dung đăng tải trên Báo điện tử Văn hóa tại địa chỉ www.baovanhoa.vn phải có sự đồng ý bằng văn bản của Báo điện tử Văn hóa.
Liên hệ quảng cáo: 024.8220036

Tổng Biên tập: NGUYỄN ANH VŨ

Phó tổng Biên tập: PHAN THANH NAM

Phó tổng Biên tập: NGUYỄN VĂN MƯỜI

Tòa soạn: 124 Nguyễn Du, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội

Điện thoại: 024.38220036 - FAX: 024.38229302

Email: baovanhoa@fpt.vn

Close 2024 Bản quyền thuộc về Báo Văn hóa
Back To Top