Sách trong đời sống báo chí - xuất bản trước 1945: Ông chủ báo trong buổi đầu nền văn chương Quốc ngữ

VHO- Nửa đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh xã hội thuộc địa và trên tiến trình hiện đại hóa đời sống văn chương - học thuật Việt Nam đã xuất hiện những gương mặt mới, đó là các doanh nhân trên lĩnh vực văn hóa. Họ đã góp phần khai mở và tổ chức nên đời sống văn hóa, báo chí, xuất bản sôi động trong ngót 40 năm, tính từ thập niên đầu thế kỷ XX.

  

Sách trong đời sống báo chí - xuất bản trước 1945: Ông chủ báo trong buổi đầu nền văn chương Quốc ngữ - Anh 1

 Học giả Nguyễn Văn Vĩnh và Báo “L’Annam Nouveau” Ảnh: Tư liệu

Là doanh nhân, trong vai trò những chủ báo, chủ xuất bản, họ còn là người thực hiện trực tiếp các ý đồ khai sáng hoặc đổi mới hoạt động văn chương, học thuật ở tư cách học giả, dịch giả, kịch tác gia, nhà văn, nhà thơ. Ba người tiêu biểu trong số đó là Nguyễn Văn Vĩnh (1982-1936), Vũ Đình Long (1896-1960) và Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (1906-1963).

Người khởi xướng công cuộc truyền bá chữ Quốc ngữ

Nguyễn Văn Vĩnh, người khởi xướng công cuộc truyền bá chữ Quốc ngữ, cũng chính là người đóng vai trò tiên phong khai mở hoạt động báo chí, xuất bản ngay từ buổi đầu hình thành của nó, vào thập niên đầu thế kỷ XX.

Sau hơn 10 năm là công chức cao cấp trong bộ máy hành chính ở Lào Cai, Hải Phòng, Bắc Giang, Hà Nội, vào năm 1906, Nguyễn Văn Vĩnh đã thực hiện một chuyến đi quan trọng: Dự Triển lãm thuộc địa ở Marseille và tham quan nghiên cứu đời sống báo chí, xuất bản ở Paris. Từ sau 1907, ông thôi hẳn nghề công chức để chuyển sang một hướng lập nghiệp mới là xây dựng nhà in, tổ chức ra báo và in sách với sự cộng tác của Schneider - một nhà doanh nghiệp người Âu đã sang Việt Nam từ 1882 để nhận thầu với Phủ Toàn quyền các công việc in ấn ở Đông Dương.

Trong bối cảnh đầu thế kỷ XX, khi công cuộc khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân mới chỉ bắt đầu, một hướng chọn nghề như vậy phải nói là thật bạo gan, nếu không nói là mạo hiểm. Người có biệt hiệu Tân Nam Tử là Nguyễn Văn Vĩnh chính là người sớm nhất đứng ra tổ chức, sáng lập và chủ trì nhiều tờ báo lớn có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa dân tộc ở Hà Nội, kể từ Đăng cổ tùng báo, tiếp tục Đại Nam đồng văn nhật báo (1907), Lục tỉnh tân văn (1910), rồi Đông Dương tạp chí (1913-1917), Trung Bắc tân văn (ra hằng ngày bằng Quốc ngữ, từ 1917), L’Annam nouveau (1931)…

Ở Nguyễn Văn Vĩnh, chủ trương truyền bá chữ Quốc ngữ và hoạt động kinh doanh in ấn gắn bó mật thiết với nhau. Ra báo, in báo là để phổ cập và phát triển việc sử dụng Quốc ngữ. Trước tác, phiên âm, dịch thuật bằng Quốc ngữ và chuyển sang Quốc ngữ sẽ đưa hoạt động báo chí nhanh chóng trở thành một phong trào sâu rộng, đáp ứng cho nhu cầu canh tân, hiện đại hóa đời sống văn hóa, văn chương, học thuật dân tộc.

Trên các phương tiện báo chí và in ấn được tạo dựng trong khoảng hơn 20 năm, Nguyễn Văn Vĩnh đã tập hợp được một lực lượng cộng sự rất đáng kể trên hai khu vực Hán học và Tây học nhằm xây dựng một nền Quốc văn mới bằng chữ Quốc ngữ. Lực lượng này gồm những tên tuổi rất đáng trọng nể như Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Phạm Duy Tốn, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố, Phạm Quỳnh, Tản Đà… Họ đều là những người uyên thâm về Hán học, nhiều người còn có vốn Tây học. Ngót 30 năm sau, trong Nhà văn hiện đại, Quyển I (1941), Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Nguyễn Văn Vĩnh là một người rất có công với Quốc văn (…) vì ông đã đứng chủ trương một cơ quan văn học vào buổi, mà đối với văn chương, mọi người còn bỡ ngỡ. Ông lại hội họp được những cây bút có tiếng, gây nên được phong trào yêu mến Quốc văn trong đám thanh niên trí thức đương thời… Những bài bình luận, những bài tham khảo về Đông phương và Tây phương đăng liên tiếp trong Đông Dương tạp chí, ngày nay mở ra, người ta vẫn còn thấy là những bài có thể dựng thành những bộ sách biên tập rất vững vàng và có thể giúp ích cho nền văn học Việt Nam hiện đại và tương lai”.

Sự nghiệp trước tác và dịch thuật “ít người sánh kịp”

Cần nói thêm, bản thân Nguyễn Văn Vĩnh vừa làm báo, vừa tổ chức nhà xuất bản, nhà in, vừa tham gia nhiều hoạt động xã hội, vẫn còn sức thực hiện một khối lượng có thể nói là khổng lồ các trước tác và dịch thuật, ở tư cách một trí thức uyên bác, và một cây dịch thuật có hạng. Ông đã để lại hàng chục bản dịch các tác gia lớn của văn học phương Tây, gồm Molière, Perault, Lesage, Abbé Prévost, A.Dumas, Victor Hugo, Fénélon, Plutarque, trong đó rất đáng ghi nhớ là các bản dịch Mai nương lệ cốt (Manon Lescaut) của A. Prévost, Những kẻ khốn nạn (Les Misérables) của V.Hugo, Thơ ngụ ngôn của La Fontaine…

Nhận xét về công của Nguyễn Văn Vĩnh, Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu (1941) cũng thống nhất như Vũ Ngọc Phan: “Ông là người học rộng, biết nhiều, lại có lịch duyệt, thiệp liệp tư tưởng học thuật của Âu Tây, nhưng cũng am hiểu tín ngưỡng, phong tục của dân ta, muốn đem những quan niệm, phương pháp mới nào hợp thời để truyền bá trong dân chúng (…) Văn ông bình thường, giản dị, có tính cách phổ thông tuy có châm chước theo cú pháp của văn Tây mà vẫn giữ được đặc tính của văn ta…”.

Đây cũng là nhận định sau khoảng lùi ngót 30 năm. Ngót 30 năm của một thời, ở nước ta, nói như Vũ Ngọc Phan “một năm đã có thể kể như 30 năm của người rồi”. Sau một khoảng lùi “30 năm”, lại là 30 năm với gia tốc lớn như vậy, mà các sản phẩm vẫn giữ nguyên giá trị, khiến “ít kẻ sánh kịp”, phải nói văn viết và văn dịch Quốc ngữ của Nguyễn Văn Vĩnh là hiện đại biết chừng nào!

Như vậy là từ buổi đầu khởi xướng việc học Quốc ngữ cho toàn dân, từ 1907 - khi cho in lên đầu trang bìa các tập mỏng của bộ Tam quốc chí diễn nghĩa (do Phan Kế Bính dịch, Nguyễn Văn Vĩnh nhuận sắc) dòng chữ nổi tiếng: “Nước Nam ta sau này hay hay dở cũng ở như chữ Quốc ngữ”, Nguyễn Văn Vĩnh quả đã tạo dựng được một sự nghiệp đồ sộ trên lĩnh vực kinh doanh in ấn báo chí, xuất bản. Đồng thời góp phần quan trọng thúc đẩy nền văn chương Quốc ngữ lên một trình độ phổ cập hiện đại mà công cuộc canh tân văn hóa đòi hỏi.

Tân Nam Tử cũng là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội nhân quyền Pháp năm 1906; rồi cùng với 4 thành viên người Pháp trong Hội ký đơn gửi Toàn quyền Đông Dương đòi tha cho Phan Châu Trinh, khi Phan bị đầy ra Côn Lôn, với án “trảm giam hậu”; Có quan điểm chính trị gần gũi với Phan Châu Trinh nên đã dịch từ chữ Hán sang tiếng Pháp bản Thư gửi Toàn quyền Đông Dương của Phan viết năm 1906, và đăng trên L’Annam nou­veau, ngày 23.3.1933; Là người đã hai lần từ chối không nhận Huân chương Bắc Đẩu bội tinh do chính quyền thuộc địa ban tặng; Là kiện tướng của phong trào báo chí và là người cha của hai nhà Thơ mới: Nguyễn Giang và Nguyễn Nhược Pháp. Và cuối cùng, là người ở tuổi 54 lâm vào cảnh phá sản, nghèo khổ, rồi bị sốt rét ác tính mà chết trong một cuộc đi tìm vàng trên đất Lào, nhưng lại được hưởng một đám ma to có rất đông các tầng lớp quần chúng đưa tiễn ở Hà Nội vào ngày 8.5.1936. Cuộc tang nhận được nhiều câu đối viếng và lời điếu, trong đó có của Phan Bội Châu, Trần Tuấn Khải, Doãn Kế Thiện, Hoàng Ngọc Phách, Lê Thước, Dương Bá Trạc, Bùi Kỷ…

Qua đời ở tuổi 54, sau ngót ba mươi năm hoạt động, Nguyễn Văn Vĩnh đã tích cực dấn thân vào một công cuộc thử nghiệm trên nhiều lĩnh vực hoạt động với một ý chí tự học và tự lập rất cao, với một ước nguyện cũng rất cao về một sự nghiệp văn hóa do chính tay mình góp công tạo dựng. Ước nguyện ấy quả ông đã thực hiện được một phần trong tư cách người khởi xướng và vận động cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ; trong tư cách người hoạt động dịch thuật; và bao trùm và nổi bật, trong tư cách người chủ báo, chủ xuất bản… 

 GS PHONG LÊ

Ý kiến bạn đọc