Tiết mục múa gáo của các em học sinh đồng bào dân tộc Khmer
Xây dựng các sản phẩm truyền thông để tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá về nghệ thuật truyền thống Khmer ở Kiên Giang bao gồm: Các bài viết, hình ảnh, video clip… đăng tải trên hệ thống báo, đài và biên soạn sách chuyên khảo về 4 loại hình nghệ thuật truyền thống Khmer tiêu biểu của tỉnh, gồm: Nghệthuật âm nhạc vàsân khấu dân gian Khmer, nghệthuật kiến trúc chùa tháp Khmer, văn học dân gian Khmer, lễhội truyền thống Khmer ởKiên Giang. Tổ chức trưng bày chuyên đề nghệ thuật truyền thống Khmer tại Bảo tàng tỉnh.Tổ chức hội thảo chuyên đề về thực trạng và giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị các loại hình nghệ thuật truyền thống Khmer tiêu biểu của tỉnh.
Lập hồ sơ khoa học về 4 loại hình nghệ thuật truyền thống dân tộc Khmer tiêu biểu ở Kiên Giang gồm: Nghệ thuật múa truyền thống Khmer, lễ hội Okombook, nghệ thuật diễn tấu dàn nhạc ngũ âm Khmer, văn học dân gian Khmer, đề nghị Bộ VHTTDL đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Mở các lớp truyền dạy về nghệ thuật truyền thống Khmer để tạo ra đội ngũ nghệ nhân, diễn viên, nhạc công kế thừa (trong đó ưu tiên mở các lớp cho đối tượng thanh thiếu niên Khmer về các loại hình nghệ thuật: Sân khấu Dù kê, ca múa dân gian Khmer, nhạc ngũ âm). Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ văn hóa cơ sở, cán bộ nghiên cứu, nghệ sĩsáng tác, dàn dựng, diễn xướng nghệ thuật truyền thống Khmer. Xây dựng 2 đội văn nghệ quần chúng Khmer có thể biểu diễn được dàn nhạc ngũâm, nghệ thuật sân khấu Dù kê và múa hát dân gian để làm nòng cốt phát triển phong trào luyện tập, biểu diễn nghệ thuật truyền thống Khmer tại những huyện có đông đồng bào Khmer sinh sống. Thành lập và duy trì 2 câu lạc bộ ghe ngo nam và nữ tiêu biểu; hỗ trợ đóng mới 6 chiếc ghe ngo và 10 bộ dàn nhạc ngũ âm…
THẾ HẠNH