Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá, “tư duy mới, hành động mới” để phát triển du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn

VHO-Theo chương trình, ngày mai 10.8, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng sẽ tham dự và trả lời chất vấn tại Phiên họp thứ 14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV. Hai nhóm vấn đề được các đại biểu Quốc hội quan tâm là triển khai Kết luận của Tổng Bí thư tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 2021; bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá; ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức và văn hoá ứng xử, xây dựng nếp sống văn hoá, bảo tồn, phát triển văn hoá xã hội và các giải pháp để du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn.

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá, “tư duy mới, hành động mới” để phát triển du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn - Anh 1

Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng phát biểu làm rõ thêm một số nội dung các đại biểu Quốc hội quan tâm tại phiên họp thứ 9, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XV

Thực hiện Công văn số 1314/TTKQH-GS ngày 4.8.2022 của Tổng Thư  ký Quốc hội về việc tham dự và trả lời chất vấn tại Phiên họp thứ 14 của Ủy ban  Thường vụ Quốc hội khóa XV, Bộ VHTTDL đã có báo cáo một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn, trong đó tập trung hai nội dung trọng tâm là phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và thực hiện chính sách, pháp luật để du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn.

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, góp phần giáo dục truyền thống, thúc đẩy phát triển KT-XH của địa phương

Báo cáo cho biết: Lĩnh vực di sản văn hóa được điều chỉnh bởi hành lang pháp lý tương đối  đầy đủ trong suốt hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị. Có 1 Luật và 1 Luật sửa  đổi; 8 Nghị định của Chính phủ; 3 Quyết định và 1 Chỉ thị của Thủ tướng  Chính phủ. Bộ VHTTDL đã ban hành 17 Thông tư, 8 Quyết  định, 3 Chỉ thị theo thẩm quyền; UBND các tỉnh/ thành phố trực thuộc Trung  ương hầu hết đã ban hành Quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích trên  địa bàn. 

Bảo tồn và phát huy giá trị các di tích nói chung, di tích lịch sử cách mạng nói riêng có vai trò quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và giáo dục truyền  thống yêu nước đối với thế hệ trẻ. Đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ thiêng liêng,  cao cả của mỗi người ở thế hệ hôm nay và mai sau trong việc thực hiện đạo lý  “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. 

Nhằm bảo đảm giữ gìn tối đa yếu tố gốc của di tích; tạo điều kiện thuận  lợi cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích, trong thời gian qua, Bộ VHTTDL  đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương thực hiện công tác  lập, thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch bảo quản, tu  bổ, phục hồi di tích (đối với di tích quốc gia đặc biệt); Chủ tịch UBND cấp tỉnh  phê duyệt quy hoạch đối với cụm di tích quốc gia, cụm di tích cấp tỉnh.  

Việc thực hiện tu bổ, tôn tạo di tích được Bộ VHTTDL và các địa phương phối hợp để triển khai. Quy trình để thực hiện các dự án  bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích về cơ bản được thực hiện khoa học, chặt chẽ,  có phân cấp để đảm bảo giữ gìn yếu tố gốc cấu thành di tích theo đúng quy định  của pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật về xây dựng.  

Các di tích, danh lam thắng cảnh sau khi được xếp hạng, ghi danh và  được tu bổ, tôn tạo thu hút ngày càng đông đảo khách du lịch trong nước và  quốc tế tới tham quan, nghiên cứu, học tập, đã trở thành địa chỉ đỏ trong việc  giáo dục truyền thống lịch sử, cách mạng cho học sinh, sinh viên thông qua các  chương trình ngoại khóa, sinh hoạt thực tế, dã ngoại, tìm hiểu, học tập về lịch  sử, hoạt động bảo tồn di sản, đền ơn đáp nghĩa… 

Nhiều di tích sau khi được tu bổ, tôn tạo trở thành những điểm đến du lịch  hoàn chỉnh, hình thành các tuyến, điểm du lịch (cả vùng đệm và khu vực xung  quanh) với các hình thức du lịch có trách nhiệm, bền vững như du lịch cộng  đồng, du lịch làng nghề, du lịch làng vườn, du lịch nông nghiệp, du lịch sinh  thái, du lịch biển... vừa tạo ra sản phẩm du lịch văn hóa mới, vừa góp phần giảm  tải trong vùng lõi di tích, góp phần giải quyết việc làm và cải thiện sinh kế cho  cộng đồng địa phương, góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế - xã hội  của địa phương. 

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại, hạn chế.  Vẫn còn hiện tượng xâm hại di tích, vi phạm trong hoạt động tu bổ, tôn  tạo di tích như thực hiện dự án tu bổ khi chưa được cấp có thẩm quyền cho  phép, thực hiện không đúng với nội dung được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch  và cơ quan chuyên môn có thẩm quyền thẩm định… đặc biệt là những dự án tu  bổ di tích từ nguồn vốn xã hội hóa.

Các di tích cấp tỉnh và di tích trong danh mục kiểm kê chưa được xếp  hạng, nhìn chung chưa được quan tâm đúng mức nên hiệu quả bảo vệ và phát  huy giá trị di tích còn thấp, đôi khi xảy ra vi phạm nhưng chưa được kịp thời xử lý dứt điểm. 

Do tính chất đặc thù của loại hình di tích lịch sử cách mạng, lại chịu nhiều  tác động của điều kiện tự nhiên dẫn đến một số di tích đang bị hư hại, xuống  cấp. Bên cạnh đó, áp lực từ sự phát triển kinh tế và tốc độ đô thị hóa đặt ra cho  công tác bảo tồn và phát huy di tích những thách thức không nhỏ. Nhiều di tích  lịch sử cách mạng khó thu hút được nguồn lực xã hội hóa do sau khi đầu tư gần  như không có khả năng thu hồi vốn.  

Công tác tuyên truyền, vận động người dân trong việc bảo tồn và phát huy  các di tích lịch sử cách mạng đôi lúc, đôi nơi chưa được triển khai thực hiện một  cách sâu rộng. 

Sau khi nêu những nguyên nhân của tồn tại, hạn chế, báo cáo cũng đề ra những giải pháp khắc phục thời gian tới. Theo đó, nghiên cứu, sửa đổi bổ sung các quy định trong Luật Di sản văn hóa và  các văn bản hướng dẫn liên quan theo hướng: Bổ sung các nhóm quy định về  chuyên môn trong hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị văn hóa; quy định rõ nội  dung, cơ chế, trách nhiệm quản lý nhà nước của các Bộ, ngành, chính quyền địa  phương; quy định về việc thu hút các nguồn lực cho công tác bảo vệ phát huy  giá trị di sản văn hóa.  

Bộ VHTTDL phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực  hiện các quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích đã được cấp có thẩm  quyền phê duyệt.  

Tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của  di sản văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước, tuân thủ và chấp hành  nghiêm các quy định của pháp luật để bảo vệ nghiêm ngặt các yếu tố gốc cấu  thành di tích, bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.  

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá, “tư duy mới, hành động mới” để phát triển du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn - Anh 2

Báo cáo cũng kiến nghị, đề xuất với Chính phủ, Quốc hội tiếp tục quan tâm, bố trí ngân sách đầu tư cho hoạt động bảo tồn, phát  huy giá trị di sản văn hóa. Trong đó, phân khai đủ kinh phí để triển khai Chương  trình Bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn  2021-2025 với mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị các di sản, các công  trình có giá trị tiêu biểu quốc gia, có ý nghĩa chính trị, văn hóa, lịch sử, truyền  thống đặc sắc góp phần phát triển văn hóa, con người Việt Nam vì sự phát triển  bền vững đất nước, trong đó “đầu tư tu bổ ít nhất 11 di tích cách mạng - kháng  chiến quan trọng, tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế  quốc Mỹ”. 

Chính phủ cho ý kiến và trình Quốc hội phê duyệt Chương trình tổng thể  phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2022-2030, tầm nhìn đến năm 2045 để  tạo cơ sở nền tảng cho các lĩnh vực của ngành văn hóa, trong đó có nhiệm vụ  bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm thực hiện cụ thể hóa Nghị quyết  Đại hội Đảng lần thứ XIII, để văn hóa phát huy sức mạnh mềm, thực sự trở  thành sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững đất nước.  

Ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức và văn hoá ứng xử, xây dựng nếp sống văn hoá và bảo tồn, phát triển văn hoá xã hội

Đây là một trong những nội dung được nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm. Đề cập nội dung này, báo cáo cho biết: Thực tế thời gian qua đã có các hiện tượng văn hóa tầm thường, dễ dãi, thị  trường lại thu hút được một bộ phận người xem quan tâm, sự nhiễu loạn “vàng  thau” lẫn lộn trong hưởng thụ văn hóa đáng được quan tâm". 

Bộ VHTTDL đã đánh giá và thẳng thắn chỉ ra các khó khăn, vướng mắc thuộc về thể chế và nguồn lực, các tồn tại, hạn chế về công tác  tham mưu, quản lý nhà nước của Ngành, đồng thời phát hiện, nhận thức sâu sắc  hơn về các thách thức như: Những tác động tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, của quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng tới ngành VHTTDL; Môi trường văn hóa còn diễn biến phức tạp, có biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục, xuống cấp về đạo  đức, lối sống; Xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, bảo  tồn và phát huy, giữ gìn và phát triển… 

Một số công trình nghiên cứu về văn hóa đã chỉ ra rằng, nguyên nhân sâu  xa nhất của hiện tượng này là “sự đứt gãy với các giá trị tốt đẹp của truyền  thống, rằng chúng ta đang ở vào “thời kỳ quá độ” khi các giá trị của xã hội tiểu  nông bị giải thể, mà các giá trị của thời đại mới, thời đại công nghiệp hóa, hiện  đại hóa chưa được định hình vững chắc”. Cùng với đó, mặt trái của nền kinh tế  thị trường, sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế dường như thúc đẩy lối  sống chạy theo vật chất, đồng tiền, đề cao các giá trị hình thức bề ngoài. Do vậy,  nhiều người, đặc biệt là một bộ phận giới trẻ bị cuốn theo những gì phù phiếm  bề nổi, mà coi nhẹ các giá trị thực chất, bên trong. Nếu các tổ chức, cá nhân không có đủ nội lực văn hóa, bản lĩnh văn hóa sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực của văn  hóa bên ngoài “chi phối”. Tinh thần “lấy cái đẹp để dẹp cái xấu” chưa được thực  hiện nghiêm túc, những thông tin tích cực, gương người tốt việc tốt chưa được  truyền thông mạnh mẽ, trong khi các tin bài giải trí thông tục, giật tít, câu view  có tần suất gia tăng, ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, thị hiếu, thẩm mỹ của công chúng, dẫn tới tình trạng “nhờn cảm xúc”, thái độ vô cảm trong xã hội hiện nay. 

Tuy nhiên, đánh giá một cách tổng thể và khái quát, trong dòng chảy của  văn hóa Việt Nam thời gian qua, nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày  càng toàn diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển  ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều  giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa,  bảo tồn và phát huy trong mọi lĩnh vực của đời sống. Một thực tế sống động để  thấy sức mạnh của giá trị văn hóa đó là trước đại dịch Covid-19 đã tác động  mạnh đến nước ta, gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội và ảnh hưởng đến sự  phát triển của đất nước, nhưng nhờ phát huy được những giá trị truyền thống tốt  đẹp của dân tộc đó là niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ  xã hội chủ nghĩa, là sự đoàn kết một lòng, là tinh thần yêu nước tương thân,  tương ái, “mình vì mọi người”, “lá lành đùm lá rách”, chúng ta đã huy động  được sức mạnh tổng hợp của dân tộc. Cả đất nước đã và đang vượt qua mọi khó khăn, thử thách để vững bước vươn lên và có được thành quả như Tổng Bí thư  Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ,  tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. 

Nhằm phát huy những kết quả đã đạt được, đồng thời khắc phục những hạn  chế, tồn tại đã được chỉ ra, giai đoạn 2016-2021, Bộ VHTTDL đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện một  số giải pháp: Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính  sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; Tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2018/NĐ-CP ngày  29.9.2018 quy định về quản lý và tổ chức lễ hội; Nghị định số 122/2018/NĐ-CP  ngày 17.9.2018 quy định về xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn  hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”;  Tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành: Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030;  Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030; Chương trình phòng, chống bạo lực gia đình trong tình hình mới đến năm 2025; Chương trình giáo dục đạo đức, lối sống  trong gia đình đến năm 2030; Kế hoạch của Chính phủ triển khai thực hiện Chỉ  thị số 06-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với  công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới; Chương trình thực hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời  sống văn hóa” giai đoạn 2021 - 2026; Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 29.3.2017 về đẩy mạnh giáo dục đạo đức,  lối sống trong gia đình;  Chỉ thị về đẩy mạnh việc thực hiện nếp  sống văn minh trong việc cưới, việc tang. 

“Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách được ban  hành kịp thời, phát huy được hiệu quả, hiệu lực quản lý các hoạt động văn hóa  cơ sở, góp phần quan trọng trong việc đề cao vai trò của văn hóa trong đời sống  xã hội. Nhiều giá trị, chuẩn mực văn hóa đã trở thành hiện thực trong đời sống,  trở thành nền nếp, tạo ra những giá trị mới phù hợp với truyền thống văn hóa  dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, đồng thời cũng góp phần thúc  đẩy, vận động quần chúng nhân dân nâng cao ý thức trách nhiệm, phát huy tính chủ động, tham gia tích cực trong việc xây dựng đạo đức, lối sống con người  Việt Nam trong tình hình mới.  

Về xây dựng đạo đức, lối sống con người Việt Nam, báo cáo nhấn mạnh: Xây dựng đạo đức, lối sống con người Việt Nam luôn là một trong những  nội dung quan trọng được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo. Giai đoạn  2016-2021, nhiều kế hoạch, hoạt động về công tác xây dựng đạo đức, lối sống  được Bộ VHTTDL ban hành và triển khai thực hiện: Tổ chức thực hiện Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 29.3.2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình; Đề án tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình Việt Nam đến năm 2020; Chương trình giáo dục đời sống gia đình đến năm 2020; Đề án phát huy giá trị  tốt đẹp các mối quan hệ trong gia đình và hỗ trợ xây dựng gia đình hạnh phúc,  bền vững đến năm 2020; Kế hoạch nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính  trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo trực  thuộc Bộ VHTTDL giai đoạn 2016-2020;  

Quyết định số 3020/QĐ-BVHTTDL ngày 30.8.2019 ban hành Kế hoạch  triển khai các nhiệm vụ, giải pháp ngăn ngừa mê tín dị đoan, loại bỏ hủ tục lạc  hậu, văn hóa phẩm đồi trụy trái với thuần phong mỹ tục giai đoạn 2020-2022;  

Quyết định số 2708/QĐ- BVHTTDL ngày .2.8.2019 ban hành Kế hoạch  tổ chức thực hiện Phong trào thi đua “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực  hiện văn hóa công sở giai đoạn 2019-2025”. 

Triển khai xây dựng các đề án, đề tài nghiên cứu, hội thảo khoa học để  nghiên cứu những giá trị văn hóa tốt đẹp phát huy và những hủ tục cần được loại  bỏ nhằm hướng tới xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần hình  thành nhân cách con người Việt Nam như: Đề tài nghiên cứu khoa học “Vai trò  của hương ước, quy ước đối với xây dựng đạo đức lối sống hiện nay”; Bộ tiêu  chí ứng xử trong gia đình; Hội thảo xây dựng văn hóa gia đình trong xã hội  đương đại; xây dựng mô hình cưới văn minh tiết kiệm, phù hợp với phong tục  tập quán; văn hóa ứng xử trong lễ hội…; Tổ chức thí điểm thực hiện “Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình”. Xây dựng và ban hành các bộ tiêu chí đạo đức, quy  tắc ứng xử phù hợp với từng lĩnh vực như: du lịch, đào tạo, văn hóa công sở, văn  hóa doanh nghiệp... 

Bộ VHTTDL  phối hợp với các Bộ, ban, ngành liên quan nghiên cứu các giải pháp xử lý người có hành vi bạo lực gia đình vừa bảo  đảm tính răn đe, vừa bảo đảm tính giáo dục để hướng đến xây dựng gia đình ấm  no, tiến bộ, hạnh phúc. 

Công tác phối hợp giữa các ban, bộ, ngành trong triển khai các biện  pháp ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức và văn hóa ứng xử Văn hóa là lĩnh vực rộng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức  mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước cần có sự vào cuộc  của cả hệ thống chính trị. Ý thức sâu sắc vấn đề này, Bộ VHTTDL với các Ban, bộ, ngành Trung ương, các địa phương chú trọng triển khai  có hiệu quả các chương trình phối hợp, cụ thể:  

Bộ VHTTDL phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Trung  ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức các  đợt phát động sáng tác tranh cổ động tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị  được giao; tổ chức thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông  thôn mới, đô thị văn minh”; 

Bộ GD&ĐT đã phối hợp với Bộ VHTTDL  xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng văn hóa ứng  xử trong trường học giai đoạn 2018 - 2025” nhằm tạo chuyển biến căn bản về  ứng xử văn hóa của cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên, học sinh, sinh viên để  phát triển năng lực, hoàn thiện nhân cách, lối sống văn hóa; xây dựng văn hóa  trường học lành mạnh, thân thiện; nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo; góp  phần xây dựng con người Việt Nam: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực,  đoàn kết, cần cù, sáng tạo;

Bộ VHTTDL phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động  Việt Nam xây dựng Chương trình phối hợp về xây dựng đời sống văn hóa trong  công nhân, viên chức, lao động giai đoạn 2016 - 2020, trong đó tập trung lồng  ghép, triển khai các nội dung tuyên truyền thực hiện nếp sống văn minh trong  việc việc cưới, việc tang và lễ hội với các phong trào khác như: phong trào xây  dựng gia đình hạnh phúc, phong trào xây dựng gia đình nông dân sản xuất giỏi,  xây dựng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; 

Bộ VHTTDL phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh  niên Cộng sản Hồ Chí Minh xây dựng chương trình phối hợp đẩy mạnh các hoạt  động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho nam, nữ thanh niên về trách  nhiệm xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, góp phần nâng cao hiểu  biết, ý thức trách nhiệm cho thanh, thiếu niên về giáo dục, đạo đức, lối sống  trong gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình; xây dựng đội ngũ thanh, thiếu  niên yêu nước, có tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối  sống văn hóa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại  hóa đất nước; 

Bộ VHTTDL tăng cường phối hợp với các địa phương  trong công tác xây dựng môi trường văn hóa, thực hiện Phong trào “Toàn dân  đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” theo hướng thực chất; thanh tra, kiểm tra,  xử lý các sai phạm đạo đức trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn, bản quyền tác  giả, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh, tổ chức lễ hội, du lịch, thể dục, thể thao, nhất  là những hành vi bạo lực, phản cảm, ứng xử thiếu văn hóa; siết chặt quản lý các  sản phẩm, dịch vụ văn hóa độc hại. 

Về kết quả thực hiện các giải pháp từ đầu năm 2022 đến nay, báo cáo cho biết: Đã hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính  sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa Chính phủ đã trình Quốc hội khóa XV thảo luận, cho ý kiến tại Kỳ hợp thứ 3 đối với Dự thảo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi).

Bộ VHTTDL đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ  ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản, tổ chức triển khai toàn diện  trong các lĩnh vực của ngành như: 

Quyết định số 04/2022/QĐ-TTg ngày 18.2.2022 ban hành quy định tiêu chí, trình tự, thủ tục xét công nhận đạt chuẩn đô thị văn minh;  

Quyết định số 357/QĐ-BVHTTDL ngày 23.2.2022 về việc tổ chức triển  khai thực hiện Đề án “Phòng ngừa tội phạm và phòng, chống vi phạm pháp luật  trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch” năm 2022;  

Quyết định số 586/QĐ-BVHTTDL ngày 17.3.2022 ban hành Kế hoạch  triển khai thực hiện Đề án truyền thông về phát triển phong trào “Toàn dân đoàn  kết xây dựng đời sống văn hóa” năm 2022;  

-Quyết định số 767/QĐ-BVHTTDL ngày 1.4.2022 phê duyệt kế hoạch  tuyên truyền nét đẹp văn hóa, ứng xử văn minh, xây dựng môi trường văn hóa  gia đình, dòng họ, khu dân cư năm 2022; 

-Quyết định số 1205/QĐ-BVHTTDL ngày 24.5.2022 phê duyệt Kế hoạch  “Xây dựng và nhân rộng mô hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng gắn với giữ gìn  và phát huy văn hóa truyền thống đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất  nước” năm 2022. 

Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa các Bộ, ban, ngành trong triển khai các biện  pháp ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức và văn hóa ứng xử đã được triển khai kịp thời, hiệu quả. 

Bộ VHTTDL chọn cơ sở là địa bàn trọng tâm để tác  nghiệp, bảo tồn, phát huy và nhân lên các giá trị văn hóa. Trên cơ sở đó, Bộ đã tiến hành rà soát, xây dựng mới và điều chỉnh bổ sung Quy chế phối hợp giai  đoạn 2021-2025, giai đoạn 2022-2026 và tổ chức ký kết Chương trình phối hợp  với các cơ quan: 

Ký kết Chương trình phối hợp giai đoạn 2021 - 2026 với Ban Tuyên giáo Trung ương về phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật, gia đình, thể thao và du  lịch. Hiện tại, Ban Tuyên giáo Trung ương đã triển khai nội dung xây dựng văn  hóa trong các cơ quan báo chí, góp phần tuyên truyền, định hướng các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; 

Ký kết Chương trình phối hợp giai đoạn 2021 - 2026 với Tổng Liên đoàn  lao động Việt Nam về xây dựng đời sống văn hóa, tập luyện thể dục, thể thao  trong công chức, viên chức, công nhân lao động;

Ký kết Chương trình phối hợp giai đoạn 2021 - 2025 với Ủy ban Dân tộc  về đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và gia đình vùng đồng bào  dân tộc thiểu số và miền núi; 

Ký kết Chương trình phối hợp giai đoạn 2022 - 2026 với Hội Người cao  tuổi Việt Nam về bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò của Người cao tuổi trong  gia đình, xã hội; 

 Ký kết Chương trình phối hợp giai đoạn 2022 - 2026 với Trung ương  Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về phối hợp tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao,  du lịch và gia đình; 

Ký kết Chương trình phối hợp giai đoạn 2022 - 2026 với Bộ Tư lệnh Bộ  đội Biên phòng về đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và gia đình trên các tuyến biên giới, biển đảo. 

Thông qua các Chương trình được ký kết, nội hàm phát triển văn hóa đã  được làm rõ hơn theo chức năng, nhiệm vụ của từng ngành, từng cấp. Tập thể  Lãnh đạo chủ chốt các Bộ, ngành tham gia ký kết đều thống nhất quan điểm việc  triển khai phải nghiêm túc, có chất lượng trên cơ sở cụ thể hóa nhiệm vụ từng  năm theo hướng có trọng tâm, trọng điểm và sơ kết, đánh giá kết quả thực hiện  vào cuối năm với mục tiêu kết quả thực hiện năm sau phải tốt hơn năm trước. 

Về kết quả bước đầu triển khai thực hiện Kết luận của Tổng Bí thư  Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc, báo cáo nêu rõ: 

Ngày 24.11.2021, tại Hội trường Diên Hồng, Nhà Quốc hội, Bộ Chính trị,  Ban Bí thư đã tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội  đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư  Nguyễn Phú Trọng nhân dịp 75 năm Ngày Bác Hồ tổ chức Hội nghị văn hóa  toàn quốc lần thứ nhất (24.11.1946-24.11.2021). Hội nghị Văn hóa toàn quốc  được tổ chức thành công, tạo thêm động lực xây dựng nền văn hóa Việt Nam  tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 

Ban Cán sự Đảng các bộ, ngành đã xây dựng kế hoạch và tổ chức học tập,  quán triệt, triển khai đầy đủ, kịp thời tới các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành,  Ban Thường vụ, 100% cán bộ chủ chốt các tổ chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng  bộ; Đảng ủy Bộ ban hành Công văn tuyên truyền, quán triệt các nội dung về Hội  nghị Văn hóa toàn quốc đến các cấp ủy đảng và đảng viên trong toàn Đảng Bộ. 

63/63 tỉnh/thành ủy đã xây dựng Chương trình hành động triển khai thực hiện  Kết luận của Tổng Bí thư tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc.  

Đặc biệt, các đồng chí Lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước thường  xuyên quán triệt nội dung xây dựng, phát triển văn hóa tại các Hội nghị của Chính phủ, Quốc hội, tại các buổi làm việc với lãnh đạo chủ chốt của các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương, qua đó góp phần tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nắm vững 06 nhiệm vụ, 04 giải  pháp trọng tâm về phát triển văn hóa Tổng Bí thư đã chỉ ra. 

Theo đó, công tác xây dựng môi trường văn hóa đi đúng hướng. Bộ VHTTL lựa chọn chủ đề công tác năm 2022 “Xây dựng môi trường văn hóa cơ sở và công tác tổ chức cán bộ”, tổ chức thành  công Lễ Phát động triển khai chủ đề năm tại Khu Di tích Kim Liên, huyện Nam  Đàn, tỉnh Nghệ An. 

Sau Lễ phát động, Bộ VHTTDL đã chỉ đạo toàn Ngành  triển khai nâng cao chất lượng việc xây dựng mô hình tự nguyện, tự quản thông  qua các hương ước, quy ước về xây dựng thôn, bản văn hóa một cách thực chất.  Phối hợp với Hiệp hội Phát triển văn hóa doanh nghiệp tổ chức 3 Hội nghị triển  khai Bộ tiêu chí Văn hóa kinh doanh Việt Nam với 16 tiêu chí cụ thể, 40 chỉ số  đánh giá, đo lường, đặc biệt chú ý tới tiêu chí chấp hành quy định của pháp luật  và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 

Các sự kiện văn hóa, thể thao, nghệ thuật cấp quốc gia, cấp vùng được tổ chức gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, đồng  thời đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân, tiêu biểu là các chương  trình, sự kiện: Liên hoan ca múa nhạc toàn quốc; Liên hoan Đờn ca tài tử quốc  gia lần thứ III-Cần Thơ năm 2022; Liên hoan Tiếng hát công nhân, người lao  động năm 2022 tại Bắc Ninh; Liên hoan Diễn xướng dân gian văn hóa các dân  tộc khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên lần thứ III năm 2022 tại Kon Tum;  Liên hoan tiếng hát Làng Sen tại Nghệ An; Hội diễn “Tiếng hát hẹn hò 9 dòng  sông lần thứ XVIII” tại Bến Tre… 

Bằng văn hóa và từ văn hóa, các sự kiện tác động trở lại để xây dựng môi  trường văn hóa trong gia đình, thôn, bản, khu phố, trong công nhân, trong doanh  nghiệp, trong doanh nhân. 

Về tăng cường đầu tư cho văn hóa, báo cáo cho biết: Nguồn lực đầu tư cho văn hóa năm 2022 của các địa phương bước đầu đã có những sự thay đổi tích cực, đặc biệt sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc. Dự toán  ngân sách năm 2022 của nhiều tỉnh/thành phố phân bổ ngân sách cho lĩnh vực  văn hóa, thể thao và du lịch đã đạt tỷ lệ trên 2% tổng chi ngân sách địa phương.

Cụ thể so với năm 2021: Tỉnh Bắc Giang tăng 12,7%; Tỉnh Hòa Bình, tỉnh  Đắk Lắk tăng 17%; Tỉnh Kon Tum tăng 18%; Tỉnh Bến Tre tăng 19%; tỉnh Phú  Thọ tăng 29%; Tỉnh Bình Thuận tăng khoảng 44%… Tỉnh Vĩnh Long chi  2,78%; tỉnh Lào Cai chi 3,33%; tỉnh Ninh Bình 4% tổng chi ngân sách địa  phương cho lĩnh vực văn hóa...Thành phố Hà Nội bố trí 15.100 tỷ đồng đầu tư  cho văn hóa giai đoạn 2021-2025 (thể thao 610 tỷ, di sản 14.000 tỷ, bảo tàng  400 tỷ).  

- Nhiều thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở được các địa phương tập trung đầu  tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới đưa vào hoạt động có hiệu quả, phát huy  tốt công năng sử dụng, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân; đồng  thời, phục vụ tốt công tác tuyên truyền, cổ động thực hiện các nhiệm vụ chính trị; từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa, thể thao giữa các vùng, khu vực, tạo nền tảng vững chắc xây dựng đời sống văn hóa  cơ sở, xây dựng nông thôn mới, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển  bền vững đất nước: Tỉnh Phú Thọ khởi công xây dựng công trình Nhà văn hóa  nghệ thuật tỉnh với mức đầu tư gần 400 tỷ đồng; tỉnh Tiền Giang đầu tư gần 300  tỷ đồng cho thiết chế văn hóa, thể thao như xây dựng Khu thể thao dưới nước, chỉnh trang Khu Di tích Chiến thắng Ấp Bắc, giai đoạn 2023-2025 sẽ tiếp tục  đầu tư 221 tỷ đồng cho các thiết chế văn hóa, thể thao như xây dựng Công viên  văn hóa, Bảo tàng, Thư viện tỉnh. 

Bên cạnh việc bố trí nguồn lực từ ngân sách Nhà nước, thời gian qua,  nhiều địa phương cũng đã chú trọng triển khai công tác xã hội hóa các hoạt động  văn hóa, tuyên truyền, thể thao, du lịch và nhận được sự hưởng ứng, đồng hành  mạnh mẽ của các doanh nghiệp đóng trên địa bàn (Lâm Đồng, Đồng Nai, Thái  Bình, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Đà Nẵng…) góp phần tạo nguồn  lực quan trọng cho phát triển văn hóa tại địa phương. 

Những thông tin, số liệu nêu trên là minh chứng rõ rệt cho thấy nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển bền vững đất nước đã được  nâng nên trong chính các cấp ủy Đảng và lan tỏa trong xã hội. Có sự chuyển  biến về tư duy, quan điểm đối với lĩnh vực văn hóa từ đầu tư cho văn hóa tốn  kém, không mang lại hiệu quả sang chăm lo cho văn hóa, đầu tư cho văn hóa là  đầu tư cho sự phát triển bền vững, có tính chất lâu dài.  

Về triển khai các nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, báo cáo chỉ rõ: Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước; những nhiệm vụ của Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014  của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa, con  người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Kết luận số 76- KL/TW ngày 4.6.2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33- NQ/TW, trong đó nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm gương mẫu của người  đứng đầu, của đảng viên. 

Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống các văn bản pháp luật về xây dựng hành vi ứng xử văn hóa. 

Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đạo đức, nhân cách con người; biểu dương cái tốt, bài trừ cái xấu, lên án cái ác, ca ngợi cái đẹp, lấy gương người tốt, việc tốt để giáo dục, cổ vũ, khuyến khích tính hướng thiện trong mỗi người. 

Tập trung triển khai thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển văn hóa Việt  Nam đến năm 2030; Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030.

Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan, các tỉnh/thành  phố trực thuộc trung ương xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nâng cao  chất lượng Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, bảo  đảm mọi thành viên của cộng đồng được phát triển các năng lực sáng tạo. Xây  dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố,  cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở  thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách. Phát huy vai  trò của văn học - nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, định hướng phát  triển nhân cách của con người Việt Nam, nhất là trong thế hệ trẻ. Bảo đảm  quyền hưởng thụ, tự do sáng tạo trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật của mỗi  người dân và cộng đồng. 

Khi nhiệm vụ xây dựng văn hoá trở thành thường trực, nền tảng văn hoá  được hình thành tự nhiên, tự nguyện trong mỗi cộng đồng, trong mỗi người, đặc  biệt là giới trẻ thì khả năng chọn lọc cái tinh tế, tốt đẹp, định vị bản thân, giá trị,  bản sắc dân tộc gắn với khát vọng hội nhập, cống hiến sẽ trở thành lá chắn mềm  loại trừ cái phản cảm, lố lăng và đó là chính là biểu hiện thuyết phục nhất của  sức mạnh nội sinh văn hóa. 

Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động văn hóa, thể thao đáp ứng nhu  cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa của người dân; tăng cường công tác hướng dẫn  nghiệp vụ đối với hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở. Tổ chức các hoạt  động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí phù hợp với đặc điểm văn hóa của các 

dân tộc, vùng, miền, góp phần giáo dục đạo đức, tạo dựng lối sống lành mạnh. 

Để du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn

Để phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng, bền vững và thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết  số 08-NQ/TW ngày 16/012017. Quan điểm đầu tiên của Nghị quyết nêu rõ  “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược  quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các  ngành, lĩnh vực khác”. 

Bộ VHTTDL nhận thức sâu sắc rằng, gần 20 năm sau  Thông báo Kết luận số 179-TB/TW ngày 11.11.1998 về “Phát triển du lịch  trong thời kỳ mới”, việc Bộ Chính trị lần đầu tiên ban hành một Nghị quyết  riêng số 08-NQ/TW ngày 16.1.2017 về  “Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn” thể hiện sự quan tâm đặc biệt, sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước đối với  ngành du lịch. 

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, với tinh thần nghiêm túc, quyết  liệt, Bộ VHTTDL luôn xác định công tác nghiên cứu, tham mưu cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên  suốt. Bám sát 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp Nghị quyết số 08-NQ/TW đã chỉ ra, Bộ đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội khóa XIV thông qua Luật Du lịch  2017; trình Chính phủ ban hành Nghị định số 168/2017/NĐ-CP ngày  31.12.2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch; Nghị định số 30/2022/NĐ-CP ngày 19.5.2022 quy định mô hình quản lý khu du lịch quốc gia  và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tạo khung khổ pháp lý, điều  kiện thuận lợi phát triển ngành du lịch. 

“Trong 5 năm qua, Bộ VHTTDL chấp hành nghiêm  túc và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến  pháp và pháp luật; chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của  Quốc hội; tuân thủ Quy chế làm việc của Chính phủ và phối hợp chặt chẽ cùng  các ban, bộ, ngành, Ủy ban của Quốc hội, các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung  ương, cộng đồng doanh nghiệp tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các quy  định, cơ chế chính sách phát triển du lịch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;  thường xuyên rà soát để kịp thời phát hiện những vấn đề khó khăn, vướng mắc,  những “điểm nghẽn”, “rào cản” để báo cáo Chính phủ, Quốc hội xem xét, chỉ đạo, tháo gỡ, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam”, báo cáo nhấn mạnh.  

Ngay sau khi Nghị quyết số 08-NQ/TW được ban hành, các ban, bộ,  ngành, Bộ VHTTDL và các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung  ương đã nghiên cứu, quán triệt triển khai thực hiện Nghị quyết bằng nhiều hình  thức phù hợp như tổ chức Hội nghị học tập, quán triệt cho đối tượng cấp ủy,  lãnh đạo chủ chốt, cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý; ban  hành các Chương trình hành động, Kế hoạch triển khai thực hiện các nội dung  của Nghị quyết phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, địa phương: 

Bộ VHTTDL đã tổ chức Hội nghị quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW đến toàn bộ cán bộ, công chức, người lao động, các doanh  nghiệp du lịch. Công tác tổ chức thi hành pháp luật nói chung, công tác tổ chức  thi hành pháp luật trong lĩnh vực du lịch nói riêng được Bộ quan tâm, chỉ đạo sát  sao và các cơ quan chuyên môn của Bộ tổ chức hướng dẫn địa phương thực hiện  ngay sau khi Luật Du lịch, Nghị định số 168/2017/NĐ-CP và các văn bản quy  phạm pháp luật liên quan được ban hành. Thay đổi nhận thức từ “làm du lịch”  sang “quản lý nhà nước về du lịch” thông qua các công cụ pháp luật, chiến lược,  kế hoạch và hoạt động điều phối, hướng dẫn.         

63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành Kế hoạch triển  khai Nghị quyết số 08-NQ/TW. Nhiều địa phương có tiềm năng, lợi thế về tài  nguyên văn hóa, tài nguyên thiên nhiên đã xác định phương hướng, mục tiêu  đến năm 2030, du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn như Hà Nội,  Quảng Ninh, Ninh Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Nam, Bình Thuận, Điện  Biên, Kon Tum, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Tây Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Kiên  Giang… trên cơ sở đó dành nguồn lực thỏa đáng từ ngân sách, ưu tiên hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng du lịch, quan tâm chỉ đạo công tác quy hoạch phát triển  du lịch, tổ chức thực hiện quy hoạch; thu hút đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ  sở vật chất kỹ thuật du lịch theo hướng đồng bộ, chuyên nghiệp, hiện đại, thân  thiện với môi trường. 

Đặc biệt, các đồng chí Lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước thường  xuyên quán triệt nội dung xây dựng, phát triển văn hóa, phát triển du lịch trở  thành ngành kinh tế mũi nhọn tại các Hội nghị của Chính phủ, Quốc hội, tại các  buổi làm việc với lãnh đạo chủ chốt của các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung  ương, qua đó góp phần tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng,  chính quyền, nắm vững 08 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm Nghị quyết 08- NQ/TW đã chỉ ra. 

Cùng với đó, Bộ đã cơ cấu lại ngành Du lịch bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện đại và  phát triển bền vững theo quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Cụ thể:  Bộ đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính  phủ ban hành Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030; Đề án cơ cấu lại ngành du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành  kinh tế mũi nhọn;  Đề án tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực du lịch; Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Giao thông vận tải theo chức năng,  nhiệm vụ đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án tăng cường hoạt động  truyền thông về du lịch; Đề án  “Tăng cường kết nối hàng không với các thị trường nguồn khách du lịch”; Bộ GD&ĐT chủ trì, phối  hợp với Bộ VHTTDL xây dựng Đề án đổi mới cơ chế hoạt  động, tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo đại học về du lịch trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 

Bộ cũng từng bước hoàn thiện thiện thể chế, chính sách. Qua rà soát, thống kê, lĩnh vực Du lịch hiện nay đang được điều chỉnh trực  tiếp bởi 1 Luật (Luật Du lịch 2017), 0 Nghị định, 9 Quyết định của Thủ  tướng Chính phủ và 10 Thông tư, Thông tư liên tịch. 

Nhìn chung, hệ thống pháp luật về du lịch đã thể chế hóa chủ trương,  đường lối của Đảng về phát triển du lịch, đảm bảo tính minh bạch và khả thi,  đáp ứng yêu cầu, hiệu quả thi hành Hiến pháp năm 2013; đồng bộ với các bộ  luật, luật mới được ban hành; thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích  hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hoạt động du lịch, nâng  cao nhận thức, hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về du lịch, tạo điều  kiện cho ngành du lịch phát triển thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của  đất nước. 

Trước năm 2017, hoạt động du lịch được điều chỉnh bởi Luật Du lịch năm  2005. Sau thời gian triển khai thực hiện, bên cạnh những tác động tích cực và  hiệu quả đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, Luật Du lịch  năm 2005 đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, ảnh hưởng tới hoạt  động và sự phát triển của ngành Du lịch. Để khắc phục những hạn chế, tạo môi  trường kinh doanh du lịch thông thoáng, Bộ VHTTDL đã  tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Du lịch năm 2017 và hệ  thống các văn bản quy định chi tiết nêu trên. 

So với trước đây, hệ thống pháp luật về du lịch hiện nay có nhiều quy định  đổi mới, cụ thể:  Bảo đảm hơn về chất lượng dịch vụ du lịch thông qua việc cấp giấy phép  kinh doanh lữ hành nội địa; chuyên nghiệp hóa hoạt động kinh doanh lữ hành  thông qua quy định về trình độ chuyên môn của người phụ trách kinh doanh lữ  hành; quản lý tốt hơn dịch vụ hướng dẫn, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa  yêu cầu về chất lượng và số lượng hướng dẫn viên du lịch. 

Quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch được chú trọng thông qua việc quy định đầy đủ và rõ ràng trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân quản  lý khu du lịch, điểm du lịch, kinh doanh dịch vụ du lịch, giảm thiểu tình trạng  chất lượng dịch vụ không tương xứng với kỳ vọng và số tiền khách phải trả, góp  phần xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam.  

Đa dạng hóa các dịch vụ du lịch, hình thành những trung tâm mua sắm  quy mô, các chuỗi nhà hàng ăn uống, chuỗi cửa hàng kinh doanh hàng hóa, đồ  lưu niệm và các dịch vụ du lịch khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch,  tăng số ngày lưu trú và mức độ chi tiêu của khách du lịch. Khuyến khích phát  triển những sản phẩm du lịch có chất lượng, có tác động tích cực tới môi trường,  thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư và đáp ứng thị hiếu của du khách.  

Nâng cao chất lượng dịch vụ lữ hành, lưu trú, hướng dẫn du lịch thông  qua việc điều chỉnh quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ lữ hành, dịch vụ  lưu trú, điều kiện hành nghề, cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch và tăng cường công  tác quản lý, kiểm soát chất lượng dịch vụ du lịch.  

Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp du lịch thông qua việc đơn giản  hóa điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính. Quy định xếp hạng cơ sở lưu  trú du lịch trên cơ sở đăng ký tự nguyện sẽ tạo điều kiện để các cơ sở lưu trú du  lịch được chủ động trong việc quyết định chất lượng dịch vụ của cơ sở.  

Tạo sự chủ động về kinh phí trong hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch  thông qua việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch. 

Trên cơ sở quy định tại Luật Du lịch 2017, các quy định luật khác có liên  quan cũng được đề xuất sửa đổi phù hợp (Luật giao thông đường bộ, Luật nhập  cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam…)…

Việc xúc tiến, quảng bá du lịch  tiếp tục được đẩy mạnh; Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và cộng đồng phát triển  du lịch; Chú trọng phát triển nguồn nhân lực du lịch…

Về nhiệm vụ trọng tâm thời gian tới, báo cáo nhận định: Phục hồi và phát triển du lịch bền vững hậu Covid không thể thành công  trong “một sớm, một chiều”; phải “tư duy mới, hành động mới”, cần nghiên cứu xây dựng và triển khai một chương trình tổng thể, các cấp, các ngành, các địa  phương và thậm chí cả các quốc gia thống nhất hành động. 

Du lịch phải đứng trên hai chân “Nội địa” và “Quốc tế”. Trong bối cảnh  thị trường quốc tế cần thời gian để phục hồi thì du lịch nội địa tiếp tục là chìa  khóa giúp ngành du lịch Việt Nam tạo đà và phát triển (ngay trước khi có  Covid-19 thì du lịch nội địa cũng đã đóng góp tới 5,5% tổng GDP cho toàn bộ  nền kinh tế).  

Sau 2 năm chịu tác động nặng nề của đại dịch Covid-19, đây là cơ hội để phát triển du lịch bền vững mà ưu tiên chính của du lịch bền vững là bảo tồn, gìn  giữ và phát huy giá trị của các di sản văn hóa tại Việt Nam, giảm tác động vào  môi trường. Cùng với đó là tăng cường chuyển đổi số trong ngành du lịch, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.

Về kết quả thực hiện, báo cáo cũng cho biết, trước đại dịch Covid-19, ngành du lịch đã có bước tăng  trưởng vượt bậc, trung bình 22,7%/năm trong giai đoạn 2015-2019. Tuy nhiên trong hai năm 2020-2021, đại dịch Covid-19 tác động nặng nề tới toàn  bộ đời sống, kinh tế - xã hội toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Hoạt động du lịch quốc tế phải tạm dừng hoàn toàn từ tháng 4.2020 đến tháng 11.2021. Théo đó, năm 2020, khách nội địa giảm 34%, tổng thu từ khách du lịch giảm 60%  so với năm 2019. Năm 2021 khách du lịch nội địa đạt 40 triệu lượt, giảm 29%  so với năm 2020; tổng thu từ khách du lịch đạt 180.000 tỉ đồng, giảm 42% so  với cùng kỳ.

Theo báo cáo, thực hiện  Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11.10.2021 của Chính phủ về Quy định  tạm thời “Thích ứng an toàn, linh hoạt kiểm soát có hiệu quả dịch Covid-19” , Bộ VHTTDL đã phát động Chương trình “Du lịch  an toàn - Trải nghiệm trọn vẹn” và nhận được sự hưởng ứng tích cực của các địa  phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân nhằm kích cầu du lịch nội địa, tạo  điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch trong nước phục hồi nhanh chóng.  

Chính thức mở cửa lại hoàn toàn thị trường khách du lịch từ ngày 15.3.2022 và là quốc gia đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á mở cửa hoàn toàn  du lịch, đồng thời là một trong 62 quốc gia trên thế giới dỡ bỏ hoàn toàn các hạn  chế nhập cảnh liên quan đến Covid-19), với sự nỗ lực, cố gắng của ngành du lịch, sự đồng hành, ủng hộ của các  tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương, thị trường du lịch đã dần khôi phục trở lại, nhất là du lịch nội địa. Doanh nghiệp du lịch đã quay trở lại thị trường và bắt  đầu hồi phục. Trong 7 tháng đầu năm 2022, doanh nghiệp du lịch đã đón tiếp và phục  vụ tổng số 71,8 triệu lượt khách du lịch nội địa, vượt chỉ tiêu kế hoạch toàn  ngành đề ra trong năm nay. Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 7 tháng ước đạt 324,9 nghìn tyỉ đồng,  tăng 37,5% so với cùng kỳ năm trước do nhu cầu vui chơi và du lịch của người  dân tăng cao trong dịp hè sau 2 năm hạn chế đi du lịch và ăn uống ngoài gia  đình (riêng doanh thu tháng 7 tăng 134,7% so với cùng kỳ năm trước).  Doanh thu du lịch lữ hành 7 tháng ước đạt 11,9 nghìn tỷ đồng, gấp 2,7  lần so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số năng lực phát triển của ngành du lịch Việt Nam tăng 8 bậc so với  năm 2019, xếp thứ 52/117 quốc gia được xếp hạng, thuộc top 3 quốc gia tăng  cao nhất trên thế giới. Dữ liệu từ công cụ theo dõi xu hướng thị trường của Google cho thấy  lượng tìm kiếm quốc tế về du lịch Việt Nam đang tăng trưởng khoảng 50%- 75%, mức tăng cao thứ 4 thế giới đặc biệt kể từ sau khi mở cửa hoàn toàn từ 15.3.2022, chỉ số này của Việt Nam đã liên tục duy trì mức tăng trưởng cao hàng đầu thế giới, hứa hẹn tốc độ phục hồi mạnh mẽ du lịch quốc tế của ngành  du lịch nước nhà. 

Đối với thị trường du lịch quốc tế:  Thí điểm mở cửa đón khách quốc tế đến 5 địa phương bắt đầu từ ngày  20.11.2021 và chính thức mở lại hoàn toàn thị trường du lịch từ ngày 15.3.2022 trong điều kiện bình thường mới. Tăng trưởng khách quốc tế 7 tháng đầu năm đạt  trung bình 62%/tháng. Thương hiệu, hình ảnh Du lịch Việt Nam “an toàn - thân  thiện - hấp dẫn” được duy trì tại các thị trường trọng điểm, truyền thống, sẵn sàng  cho mở cửa phục hồi du lịch.  

Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn gắp những khó khăn, vướng mắc: Chính sách miễn thị thực đơn phương, cấp visa điện tử đã triển khai  nhưng tính cạnh tranh còn thấp; việc chưa có Văn phòng xúc tiến du lịch quốc  gia tại nước ngoài là điểm bất lợi của du lịch Việt Nam so với các nước trong  khu vực (hiện đang thí điểm vận hành Văn phòng xúc tiến du lịch tại Anh, tại  Hàn Quốc do doanh nghiệp tài trợ). 

Nguồn lực cho xúc tiến quảng bá du lịch còn hạn chế, dàn trải, sự phối  hợp giữa các địa phương, doanh nghiệp trong xúc tiến hình ảnh du lịch quốc gia  còn chưa chặt chẽ. 

Hoạt động liên kết, hợp tác, phối hợp liên ngành, liên vùng chưa phát huy  hiệu quả đồng bộ, thiếu người “nhạc trưởng”. 

Chỉ số năng lực phát triển của du lịch Việt Nam tăng cao nhất thế giới  song một số chỉ số quan trọng về hạ tầng dịch vụ du lịch, y tế và vệ sinh, hạ tầng  mặt đất và cảng, tính bền vững về môi trường còn thấp. 

Trên cơ sở đó, báo cáo kiến nghị, đề xuất với Chính phủ, Quốc hội : Tiếp tục chấp thuận chủ trương tạo thuận lợi đơn giản hóa, linh hoạt thủ  tục xuất nhập cảnh, mở rộng danh sách quốc gia được miễn thị thực đơn phương (ưu tiên các quốc gia là thị trường nguồn, khách chi tiêu cao như các nước EU, Canada, Mỹ, Úc, New Zealand, Ấn Độ...) và cấp visa điện tử. 

Cho phép thí điểm thành lập Văn phòng xúc tiến du lịch Việt Nam tại  nước ngoài.  

Chỉ đạo xây dựng mô hình liên kết mẫu, hiệu quả giữa các địa phương,  doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước để tăng nguồn lực cho công tác xúc  tiến quảng bá. 

Thời gian miễn thị thực theo Luật xuất nhập cảnh hiện nay là 15 ngày chưa phù hợp với nhu cầu lưu trú dài  ngày từ 3-4 tuần của du khách quốc tế từ các thị trường xa như châu  Âu, Bắc Mỹ, Úc… 

Báo cáo cũng đề xuất thực hiện chính sách hỗ trợ hướng dẫn viên; hỗ trợ doanh nghiệp lữ hành; hỗ trợ cơ sở lưu trú du lịch… và một số kiến nghị, đề xuất khác…

TÙNG QUANG; ảnh: TRẦN HUẤN

Ý kiến bạn đọc