Menu
  1. Chính trị
  2. Văn hóa
  3. Nghệ thuật
  4. Giải trí
  5. Du lịch
  6. Thể thao
  7. Gia đình
  8. Kinh tế
  9. Ẩm thực
  10. Đời sống
  11. Nhịp sống số
  12. Pháp luật
  13. Thế giới
28 Tháng Ba 2024

Cuộc hải trình hướng tới bình minh

Thứ Hai 29/04/2019 | 11:38 GMT+7

VHO-  Cách đây 44 năm (29.4.1975-29.4.2019), cùng với quân và dân cả nước dốc sức cho chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh, gần 300 chiến sĩ tinh nhuệ đặc biệt của Hải quân Việt Nam đã hải trình khẩn cấp ra giải phóng quần đảo Trường Sa, góp phần to lớn giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đó là cuộc hải trình hướng tới bình minh của những người giữ biển.

Mũi tiến công giải phóng đảo Trường Sa của bộ đội Hải quân Ảnh: TƯ LIỆU

 Trong khi 5 cánh quân hùng dũng tiến về Sài Gòn, có một lực lượng đặc biệt không đánh địch trên bộ mà đánh địch giữa ngàn khơi. Đó là cán bộ, chiến sĩ Đoàn đặc công Hải quân 126, những “rái biển” của đại dương và được coi là “cánh quân đặc biệt”…

Hải trình khẩn cấp

Cho đến bây giờ sau 44 năm quần đảo Trường Sa được giải phóng, nhưng cuộc hải trình thần tốc và chiến đấu oanh liệt trên đảo Trường Sa ngày ấy vẫn in đậm trong trí nhớ của Thiếu tướng Mai Năng, người chỉ huy lực lượng ra giải phóng Trường Sa tháng 4 năm 1975. “Chuyện giải phóng Trường Sa thì tôi quên sao được. Đó là những ngày tháng đẹp đẽ nhất trong đời lính biển của tôi”, ông nói như vậy tại nhà riêng của ông ở thành phố Hải Phòng.

Nhấp ngụm nước trà xanh, ông Năng nhìn ra khoảng sân trước nhà như lục lại ký ức một thời hoa lửa. “Lớp chúng tôi ngày ấy nói đi Trường Sa là hăng hái lắm. Khi nhận được kế hoạch giải phóng Trường Sa, tôi nghĩ có thể mình sẽ không trở lại nữa, nhưng khí thế của ngày giải phóng đất nước cứ hừng hực trong tim. Vậy là lên đường không hề do dự gì”, ông Năng chia sẻ. Đêm ngày 10.4.1975, từ bến cảng Sơn Trà Đà Nẵng, “đoàn tàu đánh cá” gồm 3 chiếc 673, 674, 675 nhổ neo ra khơi trong bạt ngàn giông tố. Những đợt sóng lừng vô tận, liên tiếp như muốn vùi dập những con tàu nhỏ bé xuống biển sâu, hất lên cao, rồi lại vùi xuống. Trong “bụng” những con tàu đó chứa gần 300 chiến sĩ Đội 1 Đoàn 126 đặc công Hải quân cùng các lực lượng Quân khu 5 và hàng tấn đạn dược hải trình thần tốc ra đảo. Để bảo đảm bí mật, cán bộ chiến sĩ trên các tàu lúc đó phải ẩn giấu trong khoang kín, vừa bị say sóng, vừa thiếu không khí, nên mọi người ai cũng mệt nhoài

Thiếu tướng Mai Năng lúc đó đeo lon trung tá đi trên tàu 675 giữ chức chỉ huy biên đội tàu. Trước lúc lên đường, Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Hữu Thái giao nhiệm vụ cho biên đội tàu: “Chúng ta phải bằng bất cứ giá nào, tranh thủ thời cơ có lợi giải phóng quần đảo Trường Sa. Trận này ta không thể đánh theo cách của đặc công nước, phải đánh trinh sát vũ trang, có chỗ phải dùng hỏa lực. Khi giải phóng rồi phải tổ chức lực lượng phòng thủ đảo ngay và tiếp tục giải phóng các điểm đảo khác”. Nằm trên boong tàu, ông Năng suy nghĩ về bao khó khăn đang ở phía trước mà ông và những người lính trẻ phải đối mặt, trong khi đó tuy là lính đặc công nước nhưng hầu hết là lính mới chưa một ngày trải qua chiến đấu. Phải làm thế nào để bớt đổ máu, để giải phóng Trường Sa và thắng lợi hoàn toàn? Bao câu hỏi đặt ra trong đầu người chỉ huy.

Tàu  673, 674, 675 ra giải phóng Trường Sa năm 1975 Ảnh: TƯ LIỆU

Bí mật, bất ngờ

Sau hơn 3 ngày đêm hải trình khẩn cấp, rạng sáng ngày 13.4.1975, biên đội tàu đã đến vùng biển Song Tử Tây. Trung tá Mai Năng mở tấm hải đồ Trường Sa, trỏ tay vào một điểm, dõng dạc: “Đây là đảo Song Tử Tây, chúng ta hiện đang ở tọa độ này… Tàu sẽ bí mật vào cách đảo 4 hải lý. Nếu điều kiện cho phép cứ vào sát nữa, vòng quanh đảo tìm vị trí đổ bộ”. Mệnh lệnh đanh thép từ người chỉ huy dày dạn trận mạc như tiếp thêm sức mạnh chiến đấu cho từng chiến sĩ. Hướng về phía Đội trưởng đội 1 Nguyễn Ngọc Quế, người được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy bộ đội giải phóng đảo Song Tử Tây, trung tá Năng nói: “Đồng chí cứ theo phương án đó mà thực hiện”.

Trong khi hai tàu 674 và 675 án ngữ phía Bắc, cách đảo Song Tử Tây hơn chục hải lý đề phòng đối phương từ phía Bắc xuống và nghi binh các tàu chiến của đối phương đang lởn vởn ở khu vực đảo Nam Yết, thì tàu 673 do Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy bí mật trinh sát vòng ngoài quanh đảo, xác định rõ vị trí tiến công, những yếu tố bí mật bất ngờ, những khó khăn thuận lợi. 7 giờ sáng ngày 13.4.1975 Nguyễn Ngọc Quế báo cáo, xin thông qua phương án tác chiến, quyết định: Hướng đổ bộ lên đảo là hướng Tây Nam nơi có bãi cát phẳng và đá san hô.

Cho đến bây giờ trận chiến giải phóng Trường Sa với chiến thuật tác chiến của những “rái biển” vẫn được coi là “độc nhất vô nhị” đánh địch ở địa hình biển, đảo. Giữa đêm đen, các chiến sĩ Hải quân đặc công bơi lội trong sóng gió bằng tất cả lòng dũng cảm với quyết tâm cao nhất giải phóng cho bằng được quần đảo Trường Sa.

 Thiếu tướng Mai Năng

“Giờ G” đã điểm

Một giờ sáng ngày 14.4.1975, biên đội tàu 673, 674, 675 đã bí mật tiếp cận đảo Song Tử Tây cách 3 hải lý. Nhìn từ phía biển, đảo Song Tử Tây là đảo san hô khá lớn “bập bềnh” trong sóng lớn. Trên đảo phát ra vài quầng sáng yếu ớt của mấy ngọn đèn bảo vệ trên từ các lô cốt. Xác định đây là thời cơ thuận lợi để hạ xuồng cho quân bí mật áp sát đảo, làm bàn đạp để tiến công.

Mệnh lệnh “thả xuồng” được truyền đi từ đài chỉ huy. Tàu 673 nhanh chóng quay mũi về hướng Bắc để giữ bí mật, chọn chiều gió, hướng sóng thuận lợi để tàu đổ bộ. Tàu 674, 675 ở phía Tây và phía Bắc đảo tiếp ứng cho quân đổ bộ, sẵn sàng đánh chặn tàu địch từ phía ngoài. Cuộc chiến đấu bắt đầu. Giữa biển đêm đen, sóng gió ầm ầm, nhưng vẫn nghe được tiếng ken két phát ra từ ròng rọc hạ xuồng đổ bộ. Khí thế chiến đấu của bộ đội hừng hực. Lợi dụng thủy triều xuống thấp, tàu 673 khẩn cấp cho các chiến sĩ bí mật tiếp cận đảo. “Mặc dù thủy triều xuống thấp thuận lợi cho bộ đội cơ động , song cũng mất hơn 3 giờ mới tiếp cận được đảo. Các chiến sĩ nhanh chóng lợi dụng địa hình, địa vật bí mật sẵn sàng chờ lệnh nổ súng”, thiếu tướng Năng cho biết.

Đảo Song Tử Tây nửa đêm về sáng lặng lẽ hoang vu. Từ phía lô cốt địch, thỉnh thoảng lại lóe lên một chấm sáng nhỏ. Tất cả im lặng. Sau khi 38 cán bộ, chiến sĩ phân đội 1 bí mật bò sát mép đảo vào vị trí chiến đấu, đội trưởng Quế hạ lệnh “nổ súng”, ắt một loạt đạn DKZ bắn thẳng vào lô cốt, ụ súng địch. Những tiếng hô “xung phong” vang dậy khắp đảo. Hỏa lực từ tàu 673 tới tấp nã vào các mục tiêu. Bị tấn công bất ngờ, địch chống trả quyết liệt, đại liên từ các lô cốt bắn ra như mưa. B40, B41 của các chiến sĩ đặc công tập trung bịt họng các ổ đề kháng của địch và nhanh chóng đánh chiếm sở chỉ huy, làm chủ điện đài. “Cuộc chiến đấu diễn ra rất oanh liệt. Các chiến sĩ trẻ rất dũng cảm, thương vong không đáng kể. Nhưng đây là chiến công đầu tiên, khẳng định sức mạnh và tinh thần chiến đấu làm chủ vùng biển của Hải quân Việt Nam”, ông Năng kể lại.

Thừa thắng, các chiến sĩ tiếp cận các vị trí thuận lợi, dồn địch vào cuối đường giao thông hào, những tiếng loa gọi hàng vang lên. Biết không thể cố thủ mãi trong hầm hào công sự, lính ngụy đã giương cờ trắng xin hàng. Phía đường hào cuối đảo, những khuôn mặt phờ phạc ngơ ngác của kẻ thất trận, cầm cờ trắng, đưa tay lên đầu xin hàng vô điều kiện. Lá cờ của Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam được chiến sĩ Lê Xuân Phát kéo lên đỉnh cột cờ trước bia chủ quyền, tung bay trên đảo Song Tử Tây. Lúc đó là 5 giờ 15 phút ngày 14.4.1975.

Sau khi giải phóng Song Tử Tây, đêm 23, rạng sáng 24.4, tàu 673 tiếp tục chở lực lượng đặc công giải phóng các đảo còn lại trên quần đảo Trường Sa như đảo Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn. 9 giờ sáng ngày 29.4, Hải quân Việt Nam đã làm chủ hoàn toàn đảo Trường Sa Lớn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Quân ủy Trung ương giao cho Hải quân.

 Đảo Song Tử Tây Ảnh: MẠNH TUẤN

Khúc ca biển đảo

Nói về chiến thuật đổ bộ trên biển, cựu binh trung tá Nguyễn Viết Chức, nguyên thuyền trưởng tàu HQ07 cho biết: “Khác với đánh địch trên địa hình rừng núi hoặc bộ, đánh địch đường biển khó khăn hơn nhiều, vì đây là địa hình trong suốt. Ở giữa biển khơi không có vật che khuất che đỡ, dễ bị phát hiện. Lúc đó chúng ta phải dùng chiến thuật đổ bộ đường biển dựa vào những cơn sóng, chiều gió, đặc biệt là ban đêm. Càng tối càng tốt. Nếu sóng gió lớn, yếu tố bí mật được bảo đảm, nhưng khó khăn cho tác chiến vũ khí. Nếu lúc đó, chúng ta không sử dụng “chiến thuật rái cá” thì không tiếp cận được đảo, dễ bại lộ và trận chiến không thể giành thắng lợi như mong muốn”.

Năm nay thiếu tướng Mai Năng đã bước qua tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng tinh thần ông còn minh mẫn. “Nói về trận đánh trên đảo thì tôi không thể quên được. Đặc công của ta là đặc công nước, chưa từng đánh trên cạn. Khi được giao giải phóng Trường Sa là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng không có nghĩa không đánh được. Nay Hải quân Việt Nam đã có tàu ngầm hiện đại, đủ sức mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, song điều quyết định thắng lợi vẫn là yếu tố con người”, thiếu tướng Năng nhấn mạnh.

Nếu 44 năm trước, Trường Sa giải phóng là nhờ có tinh thần chiến đấu kiên cường, anh dũng, bí mật, sáng tạo của bộ đội đặc công, thì nay bộ đội Hải quân cũng hoàn toàn làm chủ được biển, đảo bằng sức mạnh hiện có và ý chí được truyền lửa từ thế hệ cha anh đi trước. Ý chí ấy đã đang và sẽ được các thế hệ tướng lĩnh, chỉ huy, cán bộ, chiến sĩ Hải quân Việt Nam tiếp bước và thực hiện trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo trong giai đoạn mới.

Kỷ niệm 44 năm giải phóng Trường Sa, thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân Nhân dân Việt Nam vọng tưởng hơn 3.000 liệt sĩ đã anh dũng hi sinh bảo vệ chủ quyền Tổ quốc. Trước họng súng của kẻ xâm lăng, thiếu úy Trần Văn Phương đã hô vang: “Không chùn bước. Hãy để máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân anh hùng”. Khi bị địch bắt, người lính Gạc Ma binh nhất Trần Thiên Phụng thét vào mặt quân thù “Đất nước chúng tôi không bao giờ dạy người lính đầu hàng”. Để khẳng định chủ quyền Tổ quốc, hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh đã giằng co với địch từng tấc đảo, quyết tâm cắm cờ Tổ quốc trên rạn đá Gạc Ma. Lá cờ đỏ sao vàng cắm trên đảo Gạc Ma ngày ấy, là lá cờ kiêu hãnh, đẹp đẽ nhất trong lịch sử Hải quân Việt Nam.

Lá cờ ấy đã nhuộm máu của nhiều đồng đội, dệt nên bản hùng ca Trường Sa. Và chính nó đã xây dựng một tượng đài Gạc Ma trong lòng nhân dân. Tượng đài ấy, ẩn chứa 64 linh hồn bất tử, bi tráng mà tự hào, đau thương mà kiêu hãnh. Tượng đài ấy, đã, đang và mãi mãi được thế hệ người lính Trường Sa tiếp bước, noi gương và tự hào. Nắng có thể đốt cháy da người, bão tố cuồng phong có thể làm những gốc phong ba bật rễ, gian khổ có thể làm cho mái đầu người lính thêm nhiều sợi bạc, nhưng cũng không làm lung lay được ý chí chiến đấu của người lính Trường Sa. Đó là ý chí của khát vọng hòa bình. Để rồi sau mỗi chặng đường hải trình gian khổ, sau mỗi ngày vác đá xây đảo ngâm mình trong nước biển mặn mòi, sau những giờ lăn lê, bò trườn trong nắng lửa mưa rào, các anh vẫn hát “Khúc quân ca Trường Sa” giữa mênh mông biển cả: “Ngày qua ngày, đêm qua đêm, chúng tôi đến đây gìn giữ quê hương. Đảo này là của ta, biển này là của ta, Trường Sa. Dù phong ba, dù bão tố, dù gian khổ ta vẫn vượt qua. Chiến sĩ Trường Sa, viết tiếp bài ca về những tấm gương anh bộ đội Cụ Hồ”... 

TRẦN MẠNH TUẤN

Print
«Tháng Ba 2024»
T2T3T4T5T6T7CN
26
27
28
29
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
293031
1234567

© BÁO VĂN HÓA ĐIỆN TỬ
Cơ quan chủ quản: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Giấy phép Báo điện tử số: 422/GP-BTTTT cấp ngày 19.8.2016
Bản quyền thuộc về Báo Văn hóa. Mọi hành động sử dụng nội dung đăng tải trên Báo điện tử Văn hóa tại địa chỉ www.baovanhoa.vn phải có sự đồng ý bằng văn bản của Báo điện tử Văn hóa.
Liên hệ quảng cáo: 024.8220036

Tổng Biên tập: NGUYỄN ANH VŨ
Phó tổng Biên tập: PHAN THANH NAM
Phó tổng Biên tập: NGUYỄN VĂN MƯỜI
Tòa soạn: 124 Nguyễn Du, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại: 024.38220036 - FAX: 024.38229302
Email: baovanhoa@fpt.vn

Close 2024 Bản quyền thuộc về Báo Văn hóa
Back To Top